Phối thờ thánh thánh tại tổ đình Phước Lâm

phoi tho

Phối thờ thánh thánh tại tổ đình Phước Lâm

 

Từ sau giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước Đại Việt bị chia cắt làm hai, lấy sông Gianh làm ranh giới, từ sông Gianh trở vào là Đàng Trong (chúa Nguyễn), trở ra là Đàng Ngoài (chúa Trịnh). Sau chiến tranh, các chúa nhà Nguyễn ở Đàng Trong như Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), v.v. rất chú trọng việc khai hoang nên cho quan lại đứng ra chiêu mộ dân chúng, quân đội đồn trú đi khai khẩn, xây dựng xóm làng, canh tác ruộng vườn. Ngoài ra, với chính sách mở cửa ngoại giao, các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện để các thương gia nước ngoài thuận lợi ra vào giao lưu, buôn bán, và thương cảng Hội An là một trong những trung tâm kinh tế thương mại phồn thịnh bậc nhất bấy giờ. Cảng Hội An thuộc Quảng Nam là nơi kết nối nước ta với các nước trong khu vực và những nước khác (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, v.v.). Chính sự cởi mở của chúa Nguyễn đã giúp người dân tiếp cận được các luồng văn hóa khác nhau của các quốc gia lân cận và các nước phương Tây. Qua đó người Trung Hoa đã thuận lợi trong việc nhập cư và thành lập làng xã tại Hội An, vì thế mới có làng Minh Hương ngày nay.

          Các chúa Nguyễn trong giai đoạn này đã khéo léo vận dụng tư tưởng Phật giáo để cai trị đất nước, mặt khác họ cũng thực sự là những người sùng mộ Phật giáo, tôn kính chư tăng nên tích cực trùng tu, xây dựng chùa chiền, tạo tượng, đúc chuông, v.v. Và đây cũng chính là cơ hội thuận lợi để các thiền sư Trung Hoa đến hoằng hóa tại Đàng Trong, đặc biệt là tại Hội An (Quảng Nam).

Trong các đoàn truyền giáo, phải kể đến Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo, nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong - Thời Ủy. Ngài vào Hội An khai sơn chùa Chúc Thánh và cũng là vị Tổ đầu tiên khai sinh ra dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam vào thế kỷ XVII[1].

Hội An bấy giờ là một trong những thương cảng lớn ở Đàng Trong nên người ngoại quốc đến cư trú rất đông, trong đó người Trung Hoa chiếm đa số, thế nên Thiền sư Minh Hải thu nạp cả người Hoa lẫn người Việt. Đệ tử người Hoa của ngài gồm có ngài Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Mẫn... trú tại chùa Chúc Thánh, và họ đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của người Hoa; còn các vị đệ tử người Việt ở tại chùa Phước Lâm thì đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng người Việt. Nhờ dung hòa được hai dòng Phật tử người Hoa và Việt nên chùa Phước Lâm và Chúc Thánh trở thành hai trung tâm hoằng pháp đầu tiên của Thiền phái Chúc Thánh, không chỉ ở Quảng Nam mà còn ảnh hưởng đến các tỉnh thành trong nước và lan rộng ra nước ngoài.

Như đã nói ở trên, Hội An là một thương cảng trù phú, những thương nhân đến buôn bán hay tỵ nạn chủ yếu là người Hoa và một số người trong đó đã ở lại an cư lạc nghiệp tại đây. Người Trung Hoa có tín ngưỡng rất cao, họ đi đến đâu cũng dựng miếu, xây đền, thế nên các ngôi chùa ở Hội An bị ảnh hưởng tín ngưỡng của họ khá nhiều.

Phật giáo là tôn giáo của sự hòa bình, bình đẳng, nên dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Phật giáo cũng dung hòa để phù hợp với nơi đó. Thế nên các vị Tổ sư đã phương tiện cho dựng miếu tại trong chùa để dung hòa tín ngưỡng và tập quán của họ, vì vậy phần lớn những ngôi chùa ở Hội An đều lập miếu thờ thần thánh của Trung Hoa.

Chùa Phước Lâm[2] là ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, có tuổi đời gần 300 năm, được tổ Thiệt Dinh - Chánh Hiển - Ân Triêm khai sáng vào thế kỷ XVIII[3]. Tổ Ân Triêm là người Quảng Nam nhưng là đệ tử nối pháp của Tổ sư Minh Hải - Pháp Bảo người Trung Hoa, do đó chùa Phước Lâm có sự dung hòa giữa Hoa - Việt, từ phong cách kiến trúc lẫn hệ thống bài trí tượng thờ.

Tại chùa Phước Lâm, ngoài cách bài trí các tôn tượng phổ biến như Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, A Nan, A Diếp, 18 vị A La Hán…, thì tại nhà Hậu tẩm có tôn trí tượng các vị thần thánh như: Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu có nguồn gốc truyền thuyết từ miền Bắc Việt Nam; Thập điện Diêm Vương ở Hậu tẩm và miếu ngũ hành dựng ngoài khuôn viên chùa mang màu sắc tín ngưỡng thờ tự của Trung Hoa. Sau đây là một số tượng thần đang được bài trí tại tổ đình Phước Lâm:

- Tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu

“Nhóm các Thần gồm Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các Thần là quan phò trợ chốn Thiên đình là Phán Quan, Bắc Đẩu, Nam Tào. Đây là vị thần tối cao và các quan phò trợ cai quản tất cả các cõi trong trời đất đã ăn sâu vào trong tiềm thức tín ngưỡng dân gian Việt Nam, và việc thờ Ngọc Hoàng cùng các quan thần phụ tá đã rất phổ biến trong các ngôi chùa ở các địa phương khác”[4].

Theo như truyền thuyết dân gian thì Nam Tào và Bắc Đẩu vốn là những người phàm trần và cũng là hai anh em sinh đôi trong một gia đình nghèo. Bấy giờ người mẹ đã già và mang thai 69 tháng rồi sinh ra hai cục thịt không có đầu và tay chân. Bà hoảng sợ định bỏ đi nhưng do tình mẫu tử thiêng liêng nên đã đem chúng cất ở xó nhà. Bỗng nhiên sau 100 ngày, hai cục thịt này biến thành hai chàng trai cao to, khoẻ mạnh và thông minh. Do có khả năng ghi nhớ được tất cả mọi việc xảy ra ở trên đời nên được Ngọc Hoàng gọi lên thiên đình để ghi chép lại thiên mệnh của từng người dưới trần gian từ khi sinh ra cho tới khi qua đời; đồng thời còn có thể quy định về số kiếp giàu sang, nghèo hèn, lành dữ, của con người và kiếp đầu thai của người và loài vật.

Nam Tào, Bắc Đẩu làm việc cho Ngọc Hoàng nên thường đứng hai bên trái phải, là cánh tay đắc lực của Ngọc Hoàng, do đó khi khắc tượng thì Nam Tào được đặt ở bên trái ghi sổ sinh (phía Nam) còn Bắc Đẩu đặt ở bên phải ghi sổ tử (phía Bắc), và hiển nhiên Ngọc Hoàng sẽ đặt ở giữa hai vị này. Dân gian rất chú trọng về sự sinh và tử, nên hai vị ghi chép sinh tử này giống như vị thần sinh mạng của con người, thế nên rất được người dân tôn thờ, kính trọng, nhất là ở miền Bắc. Khi người dân di cư vào vùng đất nào thì sẽ mang theo tín ngưỡng của mình theo, nên việc thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu cũng được các nhà sư tùy duyên đưa vào thờ tại chùa để phù hợp với tín ngưỡng của vùng miền đó. Đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, tổ đình Phước Lâm cũng thờ Ngọc Hoàng và Nam Tào-Bắc Đẩu tại nhà Hậu tẩm sau chính điện.

- Tượng Thập điện Diêm Vương

Tên gọi Diêm La vốn là thần Dạ-ma mang ý nghĩa là tử thần hoặc vị vua cai quản cõi âm phủ ở thời Vệ-đà Ấn Độ. Về sau, hình tượng Diêm La dung hợp với tư tưởng Tam đồ của Phật giáo, và khi truyền vào Trung Quốc đã kết hợp với tín ngưỡng Đạo giáo, sản sinh ra thuyết Thập điện Diêm Vương. Từ đó, nguồn gốc và hình thức của Thập điện Diêm Vương đã thay đổi theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại

Theo quan niệm của người Trung Quốc, “Âm phủ có 10 điện, đứng đầu mỗi điện là một vị Minh vương đảm nhận việc xét công định tội theo từng tội danh và thưởng phạt theo trách vụ được xác định có phần cụ thể và rành mạch”[5]. Quan niệm về việc phán xét tội phước, trừng trị kẻ gian ác phù hợp với tư tưởng dân gian gieo gió gặt bão”, “ở hiền gặp lành hay thuyết nhân quả trong đạo Phật. Mặc dù “Tín ngưỡng Diêm La Thập điện tuy là sự hỗn hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Trung quốc, nhưng từ xưa đến nay nó đã bắt rễ sâu trong dân gian, và ngoài đạo lý nhân quả luân hồi, thiện ác báo ứng của Phật giáo ra, tín ngưỡng này cũng có công dụng giúp phát huy thêm việc cảnh tỉnh người đời bỏ ác làm thiện”[6].

Với mong muốn khuyên răn người đời lấy đó làm gương, sống hướng thiện, có đạo đức hơn, nên chư Tổ đã phương tiện thờ Thập điện Diêm Vương tại chùa và tổ đình Phước Lâm cũng không ngoài mục đích đó. Thập điện Diêm Vương được tôn trí tại Hậu tẩm phía sau chính điện của chùa.

-          Miếu Ngũ hành tiên nương

Ngũ hành tiên nương là một trong những tín ngưỡng dân gian Việt Nam nhưng lại có nguồn gốc từ Trung Hoa, là năm vị thần tượng trưng cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Người Hoa cho rằng âm dương hòa hợp từ không gian vũ trụ, từ cuộc sống và trong cơ thể mỗi con người; chúng vận hành tương sinh theo thứ tự cố định, nếu không hòa hợp thì sinh ra mọi trở ngại trong cuộc sống như thiên tai, bệnh tật…. Vì vậy, thờ âm dương ngũ hành là mong cầu quân bình về tự nhiên như mưa hòa gió thuận, quốc thái dân an, thân tâm an lạc. Do đó các ngôi chùa ở Hội An dựng miếu Ngũ hành là để đáp ứng tính ngưỡng của người dân. Các ngôi miếu Ngũ hành tại tổ đình Phước Lâm được xây dựng với quy mô nhỏ, thường là một gian, mái lợp ngói âm dương, hướng mặt tiền quay theo hướng chùa. “Việc thờ Ngũ hành, Lục vị (gồm các vị Ngũ hành tiên nương và Thiên Y A Na) tại các chùa đều có miếu riêng trong khuôn viên chùa. Điều này tạo nên suy nghĩ rằng ở Hội An mặc dù có sự du nhập, kết hợp Tam giáo đồng nguyên nhưng vẫn có một sự phân biệt rõ và yếu tố Phật giáo vẫn là chính, chủ đạo trong các cổ tự”[7].

Miếu Ngũ hành cũng có thể được xem là nét đặc trưng văn hóa của miền Trung và niềm Nam Việt Nam, đặc biệt tại Hội An dường như phổ biến, bởi lẽ nơi có sự giao thoa với tín ngưỡng Việt - Chăm mạnh mẽ, vì người Chăm theo chế độ mẫu hệ, việc thờ Bà Chúa Tiên rất được họ coi trọng.

Ðể chính thống hóa tục thờ Bà Ngũ hành trong nhân gian, “năm Duy Tân thứ 5 (tức năm 1911), triều đình nhà Nguyễn đã sắc phong chung cho năm Bà là Ðức Thánh Nương, Trứ Phong Dực Bảo Trung Hưng Thượng Ðẳng Thần. Ðồng thời phân ra: Thổ Ðức Thánh Phi Tặng Hoằng Ðại Hậu Trung Ðẳng Thần, Hỏa Ðức Thánh Phi Tôn Thần Gia Tặng Ôn Hậu Quang Trung Ðẳng Thần, Kim Ðức Thánh Phi Tặng Chiếu Hiền Hậu Ứng Trung Ðẳng Thần, Thủy Ðức Thánh Phi Tôn Thần Gia Tặng Ôn Hậu Quang Trung và Mộc Ðức Thánh Phi Tặng Thanh Tú Khởi Trực Trung Ðẳng Thần”[8].

Phật giáo với tính chất dung hòa nên đã nhanh chóng tiếp thu những giá trị văn hóa dân tộc cũng như những tín ngưỡng tôn giáo khác. Tuy nhiên, Phật giáo chỉ phương tiện để hòa nhập chứ không bị hòa tan nên không làm mất đi nét đặc trưng vốn có của mình.

Chùa Phước Lâm ở Hội An có sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo với tư tưởng văn hóa phương Đông và tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Việc phối thờ thần thánh trong tự việc nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhiều tầng lớp dân cư khác nhau. Tại Hội An, dựng miếu thờ Mẫu, thờ thần là hình thức khá phổ biến, và tổ đình Phước Lâm cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, việc phối thờ thần thánh tại tổ đình Phước Lâm được tách biệt rõ ràng: việc thờ Phật vẫn phải là trung tâm chủ đạo, còn thờ thần thánh được giới hạn nơi một không gian nhỏ trong chùa.

Thư mục tham khảo

1. Thích Đồng Bổn - PGS.TS. Chu Văn Tuấn đồng chủ biên (2021), Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh - Lịch sử hình thành và phát triển, NXB.Hồng Đức, TP.HCM.

2. Nguyễn Hạnh (2019), Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, NXB Trẻ.

3. Lê Thọ Quốc (2010), “Thiết trí tượng thờ già lam xứ Huế trong bối cảnh đương đại”, bài in trong Nghiên cứu Văn hóa miền Trung số 9-2009.

4. Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, NXB.TP.HCM, 1995.

5. Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, NXB.Phương Đông.

6. https://giacngo.vn/noi-ve-thap-dien-diem-vuong-ram-thang-bay post5260.html.

7. https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/diem-la-thap-dien-k32208.html.

 

 

 

 



[1] Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, NXB.Phương Đông, tr.108.

[2] Chùa Phước Lâm, tọa lạc tại phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chùa được triều Nguyễn sắc tứ vào năm Duy Tân thứ 4 (1912) và được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa quốc gia năm 1991.

[3] Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, NXB.TP.HCM, 1995, tr.48.

[4] Lê Thọ Quốc (2010), Thiết trí tượng thờ già lam xứ Huế trong bố cảnh đương đại, bài in trong Nghiên cứu Văn hóa miền Trung số 9-2009, tr.168, 169.

[7] Thích Đồng Bổn - PGS.TS. Chu Văn Tuấn đồng chủ biên (2021), Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh - Lịch sử hình Tthành và phát triển, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, tr.243.

[8] Nguyễn Hạnh (2019), Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, NXB Trẻ, tr.102.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác