Học hạnh tri ân báo ân từ Đức Thế Tôn
HỌC HẠNH TRI ÂN BÁO ÂN TỪ ĐỨC TH
HỌC HẠNH TRI ÂN BÁO ÂN TỪ ĐỨC THẾ TÔN
Tỳ-kheo Đạo Nhãn
DẪN NHẬP
Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo dưới cây Bồ-đề, Ngài nhìn chăm chú không nháy mắt 
để tri ân cây Bồ-đề đã từng che nắng mưa cho Ngài trong thời gian chiến đấu ác 
ma (māra), thành Bậc Chánh giác. Đức Phật tri ân hai vị thầy đã chỉ dẫn 
Ngài chứng được tầng thiền Vô sở hữu xứ (Ākiñcañña āyatana) và Phi 
tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānasañña āyatana), Ngài kính trọng nhưng 
không ở lại cảnh thiền Vô sắc giới (Arūpadhātu) nên rời bỏ, để tiếp tục 
tìm cầu chân lý giải thoát, hoằng hóa cho chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề (Jambudīpa), 
trong đó có hai vị đạo sĩ đầu tiên. Chính đây là hạnh báo ân mà Đức Thế Tôn đã 
để lại cho thế nhân học tập và hành trì.
Tri ân (kataññutā) báo ân (katavedī) là hạnh lành của tâm, tâm sở 
đẹp (sobhana). Kataññutā là biết ơn từ việc thọ ân Tam bảo, cha 
mẹ, đàn việt, tổ quốc và chúng sinh hay ân giáo dưỡng giới thân huệ mạng của các 
bậc ân sư; katavedī là thể hiện lòng biết ơn đó qua lời nói và hành động.
HẠNH TRI ÂN CỦA ĐỨC THIỆN THỆ
1. Tri ân cây Bồ-đề 
(bodhikataññutā)
Vào tuần thứ hai sau khi 
Đức 
Thế Tôn giác ngộ, Ngài đã đứng 
nhìn không nháy mắt (animisa) 
để tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với 
về tòa kim cương (vajrāsana) và 
cây 
Bồ-đề 
khoảng 14 sải tay, 
đã che mưa nắng cho Ngài trong suốt thời gian chiến thắng ác ma để thành 
Bậc 
Chánh 
giác. 
Ngày nay, hàng Phật tử thế giới noi gương tri ân của Ngài đã bày tỏ lòng tôn 
kính cây 
Bồ-đề 
gốc và các cây con. 
Đây là một bài học luân lý đạo đức quan trọng mà 
Đức 
Như Lai 
đã dạy cho chúng sinh quán chiếu tu tập, uống nước nhớ nguồn, ăn 
quả 
nhớ kẻ trồng cây, hạnh biết ơn sinh muôn công đức lành.
2. 
Hạnh nhất tự vi sư bán tự vi sư của 
Đức 
Như Lai
- 
Chứng 
Tam 
thiền 
Vô 
sắc từ đạo sĩ Ālāra Kālāma
Như một ẩn sĩ đi tìm chân lý an tịnh cao thượng thiêng liêng, Ngài đã tìm đến 
thọ giáo với đạo sĩ Ālāra Kālāma ưu tú. 
Không 
bao lâu, 
Sa-môn 
Gotama đã thấu triệt, thành tựu được những gì Ālāra Kālāma đã sống và đạt 
được với trí tuệ trực giác với tầng thiền thứ ba, Vô sở hữu xứ, 
“cảnh giới không có gì” sau khi vượt qua Thức vô biên xứ (viññāṇañca āyatana) 
một cách hoàn toàn, nhưng không chứng ngộ được chân lý tối thượng mà Ngài hằng 
mong mỏi.
Đức Thế Tôn đã tự nỗ lực học đạo bằng năm lực (pañca balāni) với Ālāra 
Kālāma, không dựa vào một thần lực hay hóa thân đấng tối cao nào: “Không phải 
chỉ là Ālāra Kālāma có lòng tin (saddhā), niệm (sati),
định (samādhi), tuệ (paññā), Ta cũng có lòng tin, 
niệm, định, tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng (viriya) chứng cho được 
pháp mà Ālāra Kālāma, sau khi tự tu, tự chứng, tự đạt đã tuyên bố. Rồi các 
Tỷ-kheo, 
không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú”[4].
- 
Chứng 
Tứ 
thiền 
Vô 
sắc từ đạo sĩ Uddaka Rāmaputta
Sau khi rời khỏi Ālāra Kālāma, 
Sa-môn 
Gotama đã đến đạo sĩ Uddaka Rāmaputta tìm cầu pháp chí thiện vô thượng tối thắng 
an tịnh. Không bao lâu, Ngài đã thấu triệt giáo lý và chứng đắc 
Bát 
thiền Vô sắc giới, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, 
không còn tri giác nhận thức (n'eva saññā) và cũng không có không tri 
giác nhận thức (n'asañña), 
là tầng thiền cao nhất thế gian trong tam giới, tâm trở nên vô cùng tinh vi, tế 
nhị đến nỗi không thể biết tâm có còn tồn tại hay không. Những gì Uddaka 
Rāmaputta đã tự tri, tự chứng, tự đạt và và an trú pháp này, 
Đức 
Gotama cũng đã thành tựu pháp ấy và được thầy 
của 
mình đặt ngang hàng, 
thỉnh cầu chăm sóc hội chúng 
của ông.
- 
Hạnh kính nhi viễn chi
Cho dù đạo sĩ Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta không có tâm 
ganh tỵ, tật đố 
(issā) lấy làm hoan hỷ và đặt 
Sa-môn 
Gotama lên ngang hàng với mình, thỉnh cầu cùng nhau dẫn dắt nhóm đồ chúng này, 
nhưng Ngài suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an 
tịnh, thượng trí, giác ngộ, 
Niết-bàn, 
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ". 
Chí nguyện xuất gia của của Ngài không phải vì dẫn dắt nhóm đồ chúng này mà tự 
mình chưa liễu ngộ chân lý tối thượng, thì không khác nào người mù dẫn dắt người 
mù, nên Ngài không đi theo pháp này và từ bỏ ra đi. Đây là hạnh viễn ly, vẫn tôn 
trọng, không quên ân của hai vị đạo sĩ đã hướng dẫn Ngài chứng ngộ hai tầng 
thiền 
Vô 
sắc cao nhất, nhưng không trụ vào cảnh giới này, đó là kính nhi viễn chi.
- 
Tri ân báo ân đến hai vị đạo sĩ
Sau khi rời bỏ hai vị đạo sĩ, 
Đức 
Thiện Thệ
đã thấy rõ định lý 
Y 
tánh duyên khởi pháp (Idappaccayatā paṭiccasamuppāda), 
không ai có đủ khả năng để hướng dẫn Ngài thành tựu giải thoát vì chưa thoát 
khỏi vô minh. 
Chân 
lý và sự an tịnh chỉ tìm thấy được ở bên trong chúng ta: 
“Ta tự biết rõ sự nguy hại của cái bị sinh, 
già, bệnh, chết, sầu, nhiễm ô tìm cầu cái không sinh, 
già, bệnh, chết, sầu, không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, 
Niết-bàn 
và đã chứng được chúng. Và tri kiến khởi lên nơi 
Ngài, 
sự giải thoát không bị dao động, đây là đời sống cuối cùng, không còn sự tái sinh 
nữa”.
Ngài bỏ khổ hạnh và tu thiền, chứng 
sơ 
thiền đến 
tứ 
thiền, rồi phát triển thiền tuệ (paññā bhāvanā) chứng được tam minh[7]; 
tuệ tri (pajānāti) như thật khổ và các lậu hoặc, thoát khỏi tam lậu[8]. 
Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: “Sinh 
đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái 
này nữa”[9].
Sau khi chứng ngộ Chánh giác, 
Ngài 
đã nghĩ đến báo ân hai vị đạo sĩ đầu tiên, nhưng cả hai vị đều đã mất.
3. Báo ân phụ mẫu 
- 
vị thầy đầu tiên trong đời
- 
Khất thực báo ân phụ hoàng Suddhodana
Sau khi giác ngộ, 
Đức 
Thế Tôn trở về hoàng cung hóa độ phụ hoàng Suddhodana và hoàng thân quốc thích 
trong tinh thần báo ân. 
Nối dòng dõi 
Chánh 
pháp Như Lai, 
Đức 
Phật và chư Tăng trì bình khất thực về thành Kapilavatthu để hóa độ. 
Khi 
vua cha nghĩ 
rằng việc khất thực như vậy 
làm nhục hoàng tộc, 
Đức Phật 
đã 
khuyên như sau:
Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh (khất thực); 
Người chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau. 
(Lokavagga-13, Dhp.168)
Vua Suddhodana tỏ ngộ chánh kiến, đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotāpanna) 
và thỉnh 
Ngài 
về hoàng cung trai tăng. 
Đức 
Thế Tôn chúc phúc: 
Hãy khéo sống chánh hạnh
Chớ sống theo tà hạnh! 
Người chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau. 
(Lokavagga-13, Dhp.169)
Nghe xong 
nhà 
vua đắc quả Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī) 
và di mẫu Mahāpajāpatī Gotamī đắc quả 
Tu-đà-hoàn. 
Khi 
Thái 
tử tu khổ hạnh, có người đồn 
Ngài 
đã chết nhưng vua nhất định không tin, 
Đức 
Phật 
nhân đó 
kể chuyện tiền thân Dhammapāla Jātaka (Pháp hộ, Túc sinh truyện, 
số 447), nói về chánh tín của vua dù có người đồn đống xương của con mình đã 
chết. 
Nghe 
xong thời Pháp thoại này, vua đắc quả A-na-hàm (Anāgāmī). 
Trong lúc hấp hối, vua lại được nghe 
Đức 
Phật thuyết pháp đắc quả 
A-la-hán, 
hưởng quả phúc trong bảy ngày. 
Sau 
đó vua Suddhodana băng hà, khi 
Đức 
Phật bốn mươi tuổi.
- 
Thuyết Abhidhamma báo ân mẫu hậu Māyā ở Tāvatiṃsa
Vào mùa an cư kiết hạ thứ bảy sau khi thành 
Bậc 
Chánh 
giác,
Đức 
Phật 
Gotama đã lên cung trời Tāvatiṃsa,
nơi vua trời Sakka và chư thiên cư ngụ. Đức Phật đã an tọa tại 
tảng đá Paṇḍu-kambalasilā giữa đại chúng chư thiên để thuyết Abhidhamma
nhằm 
báo đáp thâm ân mẫu hậu Māyā (là vị thiên nam Santussita) và chư thiên ở 
đây. 
Tạng Abhidhamma gồm bảy bộ: 
Dhammasaṅganī
- 
bộ
Pháp tụ nói về thiện pháp, bất thiện pháp và vô ký pháp (abyakata),
Vibhaṅga
- 
bộ
Phân 
tích,
Dhātukathā
- 
bộ
Giới 
luận 
(Chất 
ngữ), Puggala paññatti
- 
bộ
Nhân 
thi thiết luận 
(Nhân 
chế định), Kathāvatthu
- 
bộ
Luận 
sự,
Yamaka
- 
bộ
Song 
đối,
Paṭṭhāna - bộ
Duyên 
hệ 
(Phát thú luận).
 
HẠNH TRI ÂN CỦA TÔN GIẢ SĀRIPUTTA
Tôn giả Xá-lợi-phất 
là một 
Bà-la-môn 
giàu nhất làng Upatissa, gần Nālanda ngày nay, 
không xa thành Rājagaha, 
sau khi xuất gia 
đã 
trở thành một tướng quân 
Chánh 
pháp có trí tuệ đệ nhất 
vào 
thời 
Đức 
Phật. Tôn giả có ba em trai (Cūḷa Cunda, Upasena-Vagantaputta
hoan hỷ đệ nhất, Revata-khadira thiền định đệ nhất) và ba em gái (Cālā, 
Upacālā, Sīsūpacālā). 
Tất cả 
đều xuất gia đắc quả 
A-la-hán.
Trên đường tìm đạo 
giải thoát, tôn 
giả vô tình gặp Trưởng 
lão A-thuyết-thị (Aśvajit阿說示, 
Assaji馬勝).
Thấy 
gương mặt trang nghiêm sáng ngời, phong độ thanh thoát của 
Trưởng 
lão Assaji, tôn 
giả liền đến gần thỉnh vấn, được 
Trưởng 
lão Assaji trả lời bằng bốn câu kệ về 
giáo lý 
Duyên khởi (paṭiccasamuppāda):
Các pháp nhân duyên sinh
Cũng theo nhân duyên diệt
Nhân duyên sinh diệt này
Phật Đại Sa-môn thuyết.
Nghe xong, Tôn giả Xá-lợi-phất liền liễu ngộ được 
pháp Duyên khởi, chứng quả Tu-đà-hoàn và kể lại cho Tôn giả Mục-kiền-liên, con 
bà Moggali ở làng Kolita. Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là môn đệ của du sĩ 
ngoại đạo Sañjaya, nhưng chưa thoát khổ luân hồi. Rồi cả hai xin Phật xuất gia 
và trở thành A-la-hán sau hai tuần trú tại 
hang Sukarakhata ở Rājagaha. Về sau, Đức 
Thế Tôn xác chứng Tôn giả Xá-lợi-phất là đệ nhất trí tuệ và thiền 
vipassanā ở Jetavana và tôn làm Thượng thủ Chánh pháp.
Tôn giả 
là vị Thượng thủ trong Tăng 
đoàn. Đức hạnh và trí tuệ của Tôn giả thật siêu phàm, thế nhưng tôn giả rất 
khiêm cung hạ mình, luôn nhớ ân dẫn dắt vào đạo của Trưởng lão Assaji. 
Tôn giả nhớ 
ân ấy suốt đời. Khi cùng ở một tinh xá, tôn giả luôn luôn đảnh lễ Trưởng lão 
Assaji sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn và khi Assaji ở tăng-già-lam khác, Tôn giả 
thường hướng về ngôi già-lam ấy mà đảnh lễ sau khi đảnh lễ Đức Phật.
TRI ÂN BÁO ÂN LÀ HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG 
Chúng ta thường thấy 
Đức 
Như Lai là một 
Bậc 
Đại Giác 
ngộ 
và độ sinh trong tinh thần 
đại 
từ bi, 
nhưng 
ít ai nhận thấy Ngài còn là 
Bậc 
Đại tri ân (mahākataññutā) đáng cho chúng ta học hỏi, một nhân cách giáo 
dục sinh động cho thế nhân qua hành động của chính Ngài 
như 
được thể hiện qua nhiều bài kinh như 
kinh
Hạnh 
phúc 
(Maṅgala sutta) của Tiểu tụng, thuộc 
Tiểu bộ (Khuddakanikāya).
Trong kinh Maṅgala,
Đức 
Thế Tôn 
nói về 
38 
điều hạnh phúc cho một vị trời tại tinh xá Kỳ Viên, 
thành Sāvatthi, 
khi 
vị này 
thỉnh vấn 
Đức 
Thế Tôn trình bày cho tất cả thiên nhân trong 
Dục 
giới 
cách 
có 
được 
một đời sống an lành, hạnh phúc:
Nhiều 
thiên 
tử và người
Suy nghĩ đến hạnh phúc,
Mong ước và đợi chờ
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về hạnh phúc tối thượng.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
Kính lễ và hạ mình
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh pháp
Là hạnh phúc tối thượng.
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO ĐỂ GIÁO DỤC PHẬT GIÁO VỮNG BỀN
Thân cận và tôn trọng các bậc thầy tổ, cha mẹ, thiện tri thức đã trao truyền 
kiến thức, chỉ cho ta những lỗi lầm và khuyết điểm cần phải tu sửa, ví như người 
chỉ chỗ chôn vàng được miêu tả trong kinh Pháp 
cú 
số 76, phẩm Hiền trí (paṇḍitavagga 6):
Nếu thấy bậc hiền trí
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí! 
Thân cận người như vậy
Chỉ tốt hơn, không xấu.
Một thuở nọ, khi Đức Phật 
trú ở tinh xá Jetavana, dùng thần lực thấy 
Bà-la-môn 
già Rādha 
nghèo khổ, phụng sự chư Tăng các vật dụng cần thiết, có khả năng chứng đắc quả 
A-la-hán. Ngài hỏi 
có vị nào nhớ các thiện sự mà Rādha đã làm cho mình không. 
Tôn giả 
Xá-lợi-phất 
trả lời rằng 
vị này đã dâng cúng cho
tôn 
giả một thìa cơm. 
Đức Phật dạy tôn 
giả nên giúp thí chủ thoát khỏi các phiền não kiết sử bất hạnh trong cuộc sống. 
Tôn giả 
Xá-lợi-phất 
đã chấp thuận cho Rādha xuất gia vào Tăng đoàn và hướng dẫn vị này tu tập thiền 
quán một cách nghiêm ngặt. Vài 
ngày sau, vị Tỷ-kheo 
già đã chứng quả vị A-la-hán. Đức Phật khuyên bảo một 
Tỷ-kheo 
nên gần gũi, tiếp thu sự hướng dẫn giống như 
Tỷ-kheo 
Rādha và không nên tức giận, sân hận, phẫn nộ khi bị khiển trách vì bất kỳ lỗi 
lầm hay khuyết điểm nào. 
Giáo 
thọ 
sư là những vị trực tiếp uốn nắn, chấn chỉnh giúp Tăng Ni sinh tiến tu thân khẩu 
ý, oai nghi tế hạnh và hoàn thiện nhân cách bằng pháp học, pháp hành và pháp 
thành (paṭivedha). Vai trò của người thầy tâm linh rất quan trọng. 
Họ cần 
phải sống trong chánh niệm, tỉnh giác trên thân thọ tâm pháp, thấy rõ thiện ác, 
pháp sinh diệt, không chỉ lý thuyết suông trong môi trường giáo dục, mà phải 
hành trì nếp sống thiền môn, xa lìa tham ái nhiễm ô.
Tôn sư trọng đạo 
là 
nét văn hóa đẹp của dân tộc ta, hiếu kính thầy tổ là hiếu kính mọi người. 
Người học Phật cần 
thân cận thiện hữu tri thức, như trong Quy 
Sơn
cảnh
sách 
có dạy: 
遠行要假良朋,
數數清於耳目,
住止必須擇伴,
時時聞於未聞,
故云: 
‘生我者父母,成我者朋友’。親附善者,
如霧露中行,
雖不濕衣,
時時有潤。狎習惡者,
長惡知見,
曉夕造惡,即目交報,
歿後沉淪,
一失人身萬刼不復。
(Đi xa cần nương bạn tốt, thường thanh lọc tai mắt, cư trú cần phải chọn bạn, 
thường luôn nghe những điều chưa nghe, cho nên nói: “Sinh ta là cha mẹ, giúp 
ta thành là bạn bè”. Gần gũi người lành như đi trong sương mù, tuy không ướt 
áo nhưng luôn luôn thấm nhuần; còn thân cận kẻ ác thì ác tri kiến tăng trưởng, 
sớm tối làm ác, chịu quả báo trước mắt, sau khi chết sa vào cảnh khổ (trầm 
luân), một khi mất thân người thì vạn kiếp không trở lại).
KẾT LUẬN
Đức 
Phật luôn khuyến khích đệ tử làm các điều thiện, phát huy những tâm sở đẹp.
Tri 
ân báo ân là thiện tâm.
Chính
Đức 
Thế Tôn đã hành trì 
hạnh này, 
như báo ân phụ mẫu, thuyết pháp độ thánh mẫu Māyā ở cung trời Đao-lợi,
độ phụ hoàng lúc lâm chung,
và thể hiện lòng tri ân đối với 
hai đạo sĩ Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta… Hàng đệ tử của Ngài cũng vậy, như
Tôn 
giả 
Xá-lợi-phất 
tri ân vị thầy gặp đầu tiên là Assaji.
Giáo dục Phật giáo là giáo dục chuyển hóa từ ác tâm thành thiện tâm, từ bất kính 
vô ơn thành tôn trọng tri ân báo ân, không còn kiêu ngạo, 
ngã mạn.
Thân ngũ uẩn này của chúng ta đang có, dù trực tiếp hay gián tiếp đều thọ tứ ân 
mà ra. Nhờ ân Tam bảo mà 
chúng 
ta thấy rõ pháp sinh diệt đoạn trừ phiền não tham sân. Nhờ ân cha mẹ, 
thầy 
tổ, thiện hữu tri thức sinh thành dưỡng dục mà thành nhân thấy rõ chánh đạo. Nhờ 
ân 
Tổ 
quốc bảo vệ sự bình yên cho cuộc sống. Nhờ ân chúng sinh, 
đàn việt giúp ta vượt qua chông gai khó khăn cản trở trong nhu cầu cần thiết.
Vì vậy, tri ân, báo ân thầy tổ đối với người học Phật là vô cùng quan trọng. Mỗi 
cá nhân phải gần gũi thầy tốt bạn hiền để được khai mở tuệ giác, sống với chánh 
niệm, tỉnh giác trong lục hòa cộng trụ, báo đáp thâm ân chư Phật như kệ Pháp 
cú số 332, phẩm 
Voi 
(nāgavagga) có dạy: 
Vui thay, hiếu kính mẹ (matteyyatā)
Vui thay, hiếu kính cha (petteyyatā),
Vui thay, kính Sa-môn
Vui thay, kính Hiền 
thánh 
(chư Phật, A-la-hán).