Thích nghi tổ chức An cư trong thời đại ngày nay

thich ngh

Thích nghi tổ chức An cư trong thời đại ngày nay

Thích Hạnh Chơn

 

Mỗi năm vào mùa hạ, Phật giáo Bắc truyền Việt Nam theo truyền thống vào kỳ An cư kiết hạ. Thời gian từ 16 tháng 4 đến 16 tháng 8 âm lịch, bao gồm tiền và hậu An cư. Trong các bộ luật (vinaya) Phật giáo có chương An cư[1] nói về duyên khởi và các vấn đề liên quan đến An cư. Nhiều bài viết đã phân tích, trích dẫn luật và đưa ra các ý kiến với mong mỏi tổ chức Phật giáo có sự điều chỉnh thích hợp với thời đại. Bài viết này tiếp tục có ý kiến đóng góp với mong muốn được lắng nghe. Bài viết sẽ thảo luận ba điểm là An cư thời Đức Phật, An cư vào thế kỷ XX ở Việt Nam, và An cư hiện nay ở Việt Nam.

An cư thời Đức Phật

An cư thời Đức Phật vào các tháng mùa mưa. Phật giáo thời Đức Phật ban đầu chưa có nơi cư trú nhưng về sau thì có nơi cư trú như tịnh xá Trúc Lâm, tịnh xá Kỳ Hoàn… (tạm gọi tự viện). Mặc dù có tịnh xá nhưng không phải tất cả các Tỳ-kheo đều ở một chỗ (có lẽ không đủ chỗ?) mà thường du hành trong nhân gian, tức đi du hóa. Với văn hóa Ấn Độ, tu sĩ các tôn giáo sống nhờ vào khất thực, tức đến đâu thì xin thức ăn nơi đó, và các Tỳ-kheo Phật giáo cũng vậy. Tài sản đơn giản gồm ba y mặc trên người, bình bát và ít vật dụng cần thiết mang theo bên người. Các Tỳ-kheo có thể du hành và sống bất cứ nơi đâu họ thấy thích hợp, miễn nơi đó không gây nguy hiểm cho đời sống tu tập. Các Tỳ-kheo cùng trú xứ có thể sống chung với nhau dựa trên pháp và luật Phật chế.

Vào thời gian không phải mùa mưa, việc du hành thuận lợi nhưng vào mùa mưa thì việc di chuyển gặp khó khăn vì y áo và đồ vật bị ướt, có khi bị nước lụt gây nguy hiểm, đi lại dẫm đạp cỏ cây, côn trùng (vì thời đó đường đất). Do đó đúng thời, tức chờ khi cư sĩ có ý so sánh với tôn giáo khác và thấy lợi ích, Đức Phật đã quy định An cư trong ba hay bốn tháng mùa mưa. An cư mùa mưa là dừng du hành trong nhân gian để tránh các vấn đề bất lợi nêu trên và cũng là thời gian để các Tỳ-kheo tập trung cùng sống chung, cùng tu học. Tuy nhiên, đây không phải là điều bắt buộc hoàn toàn vì có nhiều Tỳ-kheo thực hành An cư riêng hay hai, ba vị cùng thực hành An cư. Bởi vì, Đức Phật cho phép tâm niệm An cư.  

Thời gian mùa An cư là dịp để các Tỳ-kheo học tập lẫn nhau và thực tập thiền quán. Từ buổi sáng, sau khi thiền quán, các Tỳ-kheo đi khất thực rồi về thọ trai. Trong mùa An cư, cư sĩ Phật tử đến các trú xứ An cư cúng thức ăn nhưng có lẽ thỉnh thoảng các Tỳ-kheo cũng phải đi đến nhà cư sĩ khất thực. Chiều và tối, các Tỳ-kheo học pháp từ Đức Phật nếu cùng trú xứ An cư với Đức Phật, hay từ các Tỳ-kheo lớn, hay học lẫn nhau và dành thời gian thiền quán. Những vị thông tuệ thì có thể làm giáo thọ hướng dẫn các Tỳ-kheo và cư sĩ tu tập. Điểm chung trong mùa An cư là dù tập trung hay ở riêng thì các Tỳ-kheo đều hạn chế đi lại trừ khất thực, hạn chế ở ngoài nhà dân trừ các trường hợp cho phép và phải bạch Tăng như về thăm cha mẹ bệnh…

Thời Đức Phật, các Tỳ-kheo khá đông nên không thể tập trung lại một trú xứ, một quốc độ mà phải ở nhiều trú xứ trong cùng một quốc độ hay khác quốc độ. Khi đã chọn điểm An cư thì các Tỳ-kheo phải ở đó tu tập cho đến mãn An cư, trong ba đến bốn tháng, và không được tham dự An cư hai trú xứ để nhận phẩm vật. Điểm An cư có Đức Phật thì các Tỳ-kheo được học pháp từ Ngài, còn điểm An cư không có Đức Phật thì các Tỳ-kheo học pháp từ các vị Trưởng lão hay tự tu học. Không có kinh luật nào ghi chép Đức Phật hay các Trưởng lão như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… đi đến các trú xứ An cư khác để thăm viếng hay thuyết pháp. Việc cúng dường thức ăn đều do cư sĩ Phật tử lo, hoặc họ đem đến trú xứ An cư cúng dường, hoặc họ chuẩn bị tại nhà và các Tỳ-kheo đến nhận. Cư sĩ đến cúng dường các Tỳ-kheo để tạo phước và được nghe Đức Phật hay các Tỳ-kheo giảng pháp. Sau khi xong thời gian An cư và Tự tứ, các Tỳ-kheo khắp nơi có nhân duyên thì về đảnh lễ Đức Phật.

Vào thời Đức Phật, có thể có các nhóm Tỳ-kheo (Tăng/Sangha) sinh hoạt riêng nhưng không tách khỏi Tăng đoàn của Đức Phật. Sau khi hóa độ được 60 A-la-hán, Đức Phật dạy các Tỳ kheo A-la-hán: “Hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một đường[2]. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo A-la-hán mỗi người du hóa mỗi nơi để độ nhiều người, tạo thành các nhóm Tỳ-kheo ở nhiều nơi. Tuy nhiên, tại sao hai đệ tử lớn tài năng là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng nhiều đệ tử lớn khác không du hóa nhận đệ tử tạo thành nhiều nhóm Tỳ-kheo (Tăng) như các vị Tổ sau này đã làm? Ở chương Câu-thiểm-di thuộc Tứ phần luật[3] có ghi sự việc hai nhóm Tỳ-kheo là đệ tử của hai vị thầy tranh cãi nhau vì bất đồng về vấn đề phạm luật hay không phạm. Điều đó cho thấy cũng có nhiều nhóm Tỳ-kheo sinh hoạt với nhau khi họ ở riêng hay ở chung nhưng chung quy phải hòa hợp như pháp.

An cư vào thế kỷ XX ở Việt Nam

Truyền thống An cư được các Tỳ-kheo (chư Tăng) tuân giữ cho đến ngày nay nhưng có điều chỉnh cho phù hợp. Vào thế kỷ XX ở Việt Nam, tức sau thời Phật hơn 2.000 năm, các Tỳ-kheo tổ chức An cư tại các chùa lớn có đủ điều kiện cho chư Tăng sinh hoạt tu học, thường được gọi là trường hương, trường hạ. Mỗi trường hạ, theo quy định của chư Tổ[4], phải có vị thiền chủ, tức là vị luật sư, vị thầy giải đáp hoài nghi của hành giả An cư trong trường hạ đó; các vị giáo thọ giảng dạy và các vị trong ban chức sự (ban điều hành) được phân công lo công việc trong trường hạ. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, chư Tăng muốn học Phật pháp thì phải đến các chùa có các vị cao tăng am hiểu Phật pháp để học. Trong mùa An cư, trường hạ thỉnh mời chư tôn đức giáo thọ giảng dạy kinh luật nên đây là thời gian quý báu để chư Tăng, các Tỳ-kheo trẻ, các Sa-di… đến ở trong trường hạ để học, vì lúc bấy giờ chưa có trường Phật học.

Sau mùa An cư, hành giả có thể học được vài bộ kinh nhỏ theo chương trình của các trường hạ đưa ra. Đó là lý do các trường hạ mở ra đều có đông chư Tăng đến ở suốt ba tháng. Hơn nữa, đường sá xa xôi, phương tiện đi lại khó khăn, chư Tăng cũng không phải bận rộn nhiều việc nên vắng ba tháng ở chùa cũng không khó. Vả lại, Phật tử thời đó có thể về chăm lo chùa trong thời gian thầy trụ trì đi ở trú xứ An cư. Giai đoạn này chư tôn đức lãnh đạo hay chư tôn đức giáo thọ không thể như Đức Phật ở trong một trú xứ An cư mà được phân công đi thăm và giảng dạy tại một số trường hạ. Như vậy, ngoài việc tu tập theo thời khóa và nghi thức quy định của mỗi trường hạ An cư, hành giả được học Phật pháp, trau dồi kiến thức làm nền tảng cho việc tu đúng và thực hành đúng. 

An cư hiện nay ở Việt Nam

An cư vào thế kỷ XXI vẫn được duy trì theo luật Phật chế. Từ thời có tự viện và chư Tăng cư trú tại các tự viện cố định thì việc du hành trong nhân gian rày đây mai đó không còn nữa. Nói cách khác là chư Tăng đã cư trú suốt năm tại chùa nên ý nghĩa dừng lại về mặt vật lý không còn nữa, và nếu còn là đối với một số ít Tỳ-kheo vì công việc Phật sự thường đi lại. Hơn nữa, việc đi lại bằng phương tiện xe cộ và đi trên đường nhựa thì việc dẫm đạp cỏ hay côn trùng cũng không phải là lý do để bị chê trách. Mùa An cư không phải là mùa mưa trong cả nước Việt Nam mà là mùa nắng nóng đối với nhiều nơi. An cư kiết hạ là sự thích nghi theo văn hóa nơi Phật giáo hiện hữu.

Từ cuối thế kỷ XX ở Việt Nam, trường Phật học được mở ra từ sơ cấp đến cao học. Các Tăng Ni đều có cơ duyên đến trường học kinh luật. Do đó các trường hạ ngày nay hiếm hay không tổ chức dạy kinh bộ như thời trước. Việc thu hút Tăng Ni tham gia các điểm An cư tập trung để học và thực hành giáo pháp cần phải có chuyên đề và thực tiễn.

Theo Thông bạch tổ chức An cư kiết hạ số 42/TB-HĐTS năm 2025 của Hội đồng Trị sự, trường hạ tập trung nào cũng phải có ban chức sự và ban giảng huấn. Nội dung tu học cũng được Thông bạch hướng dẫn rất cụ thể, nhất là phần luật. Tuy nhiên, thực tế không mấy trường hạ thực hiện đúng như Thông bạch nên khó thu hút hành giả về thực hành An cư tập trung ba tháng. Thứ nhất, thiếu thiền chủ có đủ khả năng dạy thiền quán, giải đáp nghi vấn cho hành giả An cư tại trường hạ (?). Thứ hai, thiếu các vị giáo thọ thường trực giảng dạy cho hành giả An cư (?). Vì thiếu thành phần quan trọng để chúng Tăng nương tựa nên không khí tu học thảo luận cởi mở cũng bị thiếu vắng. Vì vậy, nhìn chung chương trình tu học tại các trường hạ từ sáng đến tối là tụng kinh, trì chú, lạy Phật, niệm Phật, cúng Phật. Giờ học và thảo luận hằng ngày cho chư Tăng còn chưa có huống chi cho cư sĩ. Hầu hết cư sĩ về chùa được hướng dẫn cúng dường tài vật và được đáp lại là cầu an và cầu siêu.

Giải pháp tham khảo

Trường hạ An cư phải đem đến lợi ích cho hành giả về tâm linh lẫn vật chất, trong đó phải chú trọng tâm linh. Các luật sư Phật giáo đã liệt kê An cư có 10 lợi ích, tựu trung thuộc vật chất như y áo, ẩm thực, phẩm vật, lợi dưỡng... Ngày nay, các trường hạ thu hút hành giả phần lớn dựa vào điều kiện này và tất nhiên phần lớn hành giả là các Tỳ-kheo trẻ, chưa trụ trì[5]. Dùng lợi ích vật chất thu hút các vị trụ trì sẽ không hiệu quả vì các vị trụ trì khó vắng chùa suốt ba tháng do không có người thay chăm lo Phật sự tại chùa. Do đó, giải pháp cần chú trọng phần tu học tâm linh cộng với sự ràng buộc theo hiến chương, nội quy liên quan đến tấn phong giáo phẩm do Giáo hội quy định hay thu nhận đệ tử theo luật Phật chế mới có hiệu quả.

Thực hành An cư là bắt buộc nhưng phải đúng luật Phật chế. Không có bộ luật Phật giáo nào buộc Tăng Ni phải bỏ chùa đến các trú xứ An cư ở ba tháng nên việc buộc chư Tăng phải thực hành An cư tập trung hay tại chỗ với số lượng 20 vị mới ký sổ hạ làm căn cứ tấn phong giáo phẩm là không khả thi. Trong thời đại ngày nay, có thể áp dụng luật Phật bắt buộc tất cả chư Tăng phải tuân hành theo sự lựa chọn. Một là chư Tăng thực hành An cư tại các trường hạ tập trung do Ban Trị sự tổ chức hay các trường hạ tại chỗ do tu viện, thiền viện, tổ đình hay tông phong tổ chức. Các trường hạ này phải tuân thủ theo Thông bạch hướng dẫn và phải có báo cáo, kiểm tra. Hai là chư Tăng thực hành An cư tại tự viện của mình theo pháp tâm niệm An cư nhưng phải tham dự Bố-tát mỗi tháng hai lần tại trường hạ tự chọn đăng ký dự Bố-tát. Tại tự viện, vị trụ trì cũng có thể hướng dẫn đệ tử Sa-di hay điệu học kinh luật và tạo mối giao cảm thầy trò cần thiết. Các trường hạ tổ chức Bố-tát nên lên chương trình cả ngày để các hành giả về tham dự lễ Bố-tát được học hỏi, thảo luận, lắng nghe lời chỉ dạy của các vị Trưởng lão. Để có thể thực hiện đạt kết quả, chư tôn đức Trưởng lão còn sức khỏe và có khả năng giảng dạy có thể giải đáp thắc mắc về kinh luật cần hy hiến vì đạo Pháp và các hành giả phát huy tinh thần đoàn kết hòa hợp.

Hơn nữa, ngày nay bắt buộc chư Tăng trụ trì tập trung một trú xứ thực hành An cư ba tháng là khó khả thi. Thứ nhất, các vị trụ trì khó có thể bỏ chùa ba tháng nếu không có người thay. Thứ hai, chương trình tu học trong ba tháng ngoài các khóa lễ, cầu an, cầu siêu, mỗi ngày hay mỗi tuần vài ngày có chương trình học thảo luận cũng khó thực hiện trong ba tháng vì thiếu giáo thọ thường trú tại trường hạ. Để giải quyết vấn đề trên, chư Tăng có thể thực hành An cư tại trú xứ đã chọn (tập trung hay tâm niệm) nhưng bắt buộc tham gia khóa huân tu tập trung từ bảy đến mười ngày. Trong khóa tu, chương trình học thảo luận được thiết kế sáng chiều để các hành giả học và thực hành. Như Thông bạch An cư năm 2025, Giáo hội đã đưa ra chương trình học luật. Các hành giả tham gia khóa tu sẽ học và thực hành các pháp yết-ma về cương giới (kết và giải cương giới); về truyền giới, thụ giới cho Tăng, Ni; về Bố-tát, thuyết giới; về An cư và Tự tứ; về thụ y công đức (y Cathina); về thọ vật, thuyết tịnh và phân vật… Đây là những quy định được Đức Phật chế cho tập thể Tăng sống chung phải biết để thực hành đưa đến đời sống hòa hợp. Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau và như vậy truyền thừa liên tục. Thế hệ sau có những nghi vấn cần giải đáp giúp cho thế hệ đi trước cần nhìn lại điều chỉnh áp dụng cho phù hợp thực tiễn. Học xong phần nào phải thực hành ngay phần đó và ngay trong khóa tu. Khóa đầu đào tạo giáo thọ cho khóa hai. Khóa hai sẽ có giáo thọ của khóa đầu và các bậc thầy trước đó. Như vậy không phải lo thiếu giáo thọ. Đó thực sự là không khí tu học bổ ích.

Đất nước Việt Nam đang thay đổi rất lớn, rất tích cực. Phật giáo cũng phải thay đổi cho phù hợp thời đại. Sự thay đổi nào cũng gây ảnh hưởng đến một bộ phận nhân sự nhưng sự thay đổi đem lại kết quả tốt hơn thì cần phải thực hiện./.

 

 


 

[1] Tỳ-kheo Thích Đổng Minh dịch, Tứ phần luật, Hà Nội: NXB.Hồng Đức, 2020, tr.1253-1271.

[2] Đại phẩm (Mahavagga) thuộc tạng Pāli. Đoạn này không tìm thấy trong Tứ phần luật.

[3] Tỳ-kheo Thích Đổng Minh dịch, Tứ phần luật, Hà Nội: NXB.Hồng Đức, 2020, tr.1453-1470.

[4] Người viết chưa tìm ra ai soạn quy định này.

[5] Xem Mười lợi ích an cư, https://giacngo.vn/muoi-loi-ich-an-cu-post72122.html, truy cập 20/6/2025.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle