Pháp chúng học trong hai truyền thống Luật tạng
phap hoc
PHÁP
CHÚNG HỌC TRONG HAI TRUYỀN THỐNG LUẬT TẠNG
Thích
Nữ Liên Liên
Trong
Phật giáo, giới luật giữ một vị trí quan trọng trong việc duy trì đời sống phạm
hạnh, bảo vệ sự thanh tịnh cá nhân và sự hòa hợp của Tăng đoàn. Giới luật không
chỉ là những điều răn ngăn ngừa hành vi sai trái mà còn là một phương tiện tu tập,
đưa hành giả đến sự tự chủ, từ bỏ và giải thoát. Trong Luật tạng (Vinaya), các điều giới được hệ thống hóa
theo những cấp độ khác nhau, trong đó Pháp
chúng học (Pācittiya) là một
nhóm giới tội thuộc loại nhẹ, tuy không dẫn đến đọa lạc hay mất giới thể, nhưng
có ảnh hưởng trực tiếp đến oai nghi, phẩm hạnh và sự tín kính của cư sĩ đối với
Tăng bảo.
Pháp
chúng học là nhóm điều giới chiếm số lượng lớn trong giới bổn của Tỳ-kheo-ni.
Những điều giới này phản ánh chi tiết đời sống thường nhật của Tăng sĩ, từ lời
nói, cử chỉ, đến các hành vi tế nhị trong tiếp xúc với cư sĩ, tài vật và cộng đồng.
Chính vì mang tính gần gũi và thực tế cao, Pháp chúng học không chỉ là khung kỷ
luật nội bộ mà còn là biểu hiện sống động của văn hóa Tăng đoàn trong từng thời
đại và truyền thống.
Luật tạng Pāli, đại diện cho truyền thống Nam
truyền (Theravāda), được kết tập bằng
tiếng Pāli từ hội nghị kết tập lần thứ nhất tại Ấn Độ, về sau phát triển mạnh tại
các quốc gia như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Campuchia. Trong khi đó, Tứ phần luật thuộc Đàm Vô Đức bộ (Dharmaguptaka) - một trong những bộ phái
Phật giáo sau kỳ kết tập thứ hai - được truyền sang Trung Hoa và ảnh hưởng sâu
đậm đến Phật giáo Phát triển, đặc biệt trong hệ thống giới luật tại Trung Quốc,
Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Việc
khảo sát và đối chiếu Pháp chúng học giữa hai hệ Luật tạng Pāli và Tứ phần luật
không chỉ góp phần làm sáng tỏ những khác biệt trong quan niệm và thực hành giới
luật giữa truyền thống Nam truyền và Bắc truyền, mà còn giúp nhận diện sâu sắc
tiến trình phát triển cũng như tính linh hoạt của giới luật Phật giáo trong các
bối cảnh văn hóa - xã hội khác nhau. Thông qua việc so sánh có hệ thống, người
nghiên cứu có thể nhận ra không chỉ sự đa dạng về cách diễn giải, phạm vi áp dụng
và phương pháp sám hối giữa hai truyền thống, mà còn thấy rõ nỗ lực duy trì cốt
lõi của giới pháp trong khi thích ứng với nhu cầu thực tiễn từng thời đại.
Sự
khác biệt về ngôn ngữ, hoàn cảnh lịch sử và môi trường truyền bá đã góp phần
hình thành nên những dị biệt trong hệ thống Pháp chúng học, dù cả hai đều khởi
nguyên từ giới bổn nguyên thủy của Tăng đoàn. Một số điều giới có nội dung
tương đồng nhưng cách triển khai lại khác biệt về mặt chi tiết và phạm vi thực
hành; có điều giới mang cùng tên gọi nhưng được lý giải hoặc áp dụng theo những
hướng khác nhau tùy theo truyền thống. Điều này cho thấy giới luật Phật giáo
không phải là một hệ thống cứng nhắc mà là một tiến trình vận động linh hoạt,
có khả năng thích nghi cao, đồng thời vẫn giữ được giá trị cốt lõi là hộ trì đạo
tâm và bảo hộ Chánh pháp.
Từ
đó, việc nghiên cứu so sánh Pháp chúng học giữa hai truyền thống Luật tạng
không chỉ có giá trị về mặt luật học, mà còn mở ra hướng tiếp cận liên tông - nối
kết giữa các truyền thống luật chế Phật giáo. Đây cũng là cơ hội để người học
giới hiểu rõ hơn giới pháp như một phương tiện nuôi dưỡng đạo lực, thanh tịnh
thân tâm, và thể hiện sinh động tinh thần từ bi, trí tuệ trong giáo pháp Như
Lai.
1. Khái lược danh từ Pháp chúng học
Pháp
chúng học (法眾學), Pāli là Sekhiya, nghĩa là huấn
luyện học tập và thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là những điều khoản về
đi đứng, nằm ngồi, ăn uống… Sự thể hiện tác phong của vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
sống đời phạm hạnh. Những hành vi tuy nhỏ nhẹ này, tuy tội nhẹ nhưng rất khó
giữ. Nếu vô tình vi phạm thì phải tự sám hối, cố ý phạm thì phải nói với vị
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sám hối cho ba nghiệp thanh tịnh.
2. Pháp chúng học theo tinh thần hai bộ luật
Giới
này đối với Tỳ-kheo-ni theo Tứ phần luật có 100 học giới, riêng Luật
tạng Pāli thì Tỳ-kheo-ni có 75 điều.
Với
Pháp chúng học, người viết chia theo thành nhóm, dựa trên nội dung tương ứng
của các học giới giữa hai hệ thống luật. Có những học giới riêng biệt ở mỗi bộ
luật; có những học giới có nội dung giống nhau hoàn toàn, có những học giới có
điểm dị biệt nhỏ trong nội dung, và có vài học giới có nội dung hoàn toàn khác
nhau giữa hai hệ thống luật. Cụ thể như sau:
2.1.
Nhóm 1: Những
học giới chỉ có riêng ở mỗi bộ luật, bộ luật kia không có.
a. Luật tạng Pāli:
Giới
19. Không được lắc lư đầu khi đi vào nhà cư sĩ.
Giới
20. Không được lắc lư đầu khi ngồi trong nhà cư sĩ.
Giới
40. Nên làm nắm cơm tròn đều.
Giới
42. Không đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc ăn.
Giới
45. Không nên ăn bằng cách cắn vắt cơm từng chút một (ăn nhâm nhi).
Giới
53. Không nạo vét bình bát khi ăn.
Giới
54. Không liếm môi khi ăn.
Giới
65. Không thuyết pháp cho người ôm đầu gối, trừ bệnh.
Giới
68. Không thuyết pháp cho người ngồi trên chỗ ngồi, mình ngồi ở nền đất.
b. Tứ phần luật: Giới 46, 52, 53, 56, 60, 61,62, 63, 64, 65,
66, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85,
88, 91, 93, 94, 95, 97.
2.2.
Nhóm 2: Những
học giới có nội dung hoàn toàn tương đồng nhau. Đó là điều 12-19, 24-27, 29-32,
35-38, 40-43, 45, 47, 49-51, 54, 55, 57, 59, 86, 87, 89, 90, 92, 96, 98-100.
2.3.
Nhóm 3: Những
học giới có nội dung khá tương đồng nhưng vẫn tồn tại vài điểm dị biệt trong
quy định của điều học.
-
Điều 1 (quấn nội y). Tứ phần luật: Quấn y tề chỉnh; Luật tạng Pāli:
Quấn y (nội) tròn đều (paramaṇḍalaṃ nivāsessāmi).
-
Điều 3 (không được mặc ngược y khi đi). Luật tạng Pāli: Vén y lên khi
vào xóm; Tứ phần luật: Vắt ngược y khi vào nhà cư sĩ.
-
Điều 4 (không mặc ngược y khi ngồi). Như điều giới trên, chỉ khác là Luật
tạng Pāli: Ngồi trong nhà xóm; Tứ phần luật: Trong nhà cư sĩ (bạch
y).
-
Điều 7 (không lấy y trùm đầu khi đi). Luật tạng Pāli: Đi ở nơi xóm nhà; Tứ
phần luật: Đi vào nhà bạch y.
-
Điều 8 (không lấy y trùm đầu khi vào nhà). Như học giới trên, chỉ khác là Luật
tạng Pāli: Vào ngồi trong xóm; Tứ phần luật: Ngồi nhà đàn-việt (bạch
y).
-
Điều 9 (không được vừa đi vừa nhảy khi đi vào nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli:
Không được đi vào nhà với sự nhón gót; Tứ phần luật: Không được vừa đi
vừa nhảy.
-
Điều 11 (không được ngồi chồm hỗm trong nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli:
Không ngồi với sự ôm đầu gối; Tứ phần luật: Không ngồi chồm hỗm.
-
Điều 12 (mặc y nghiêm chỉnh). Luật tạng Pāli: Mặc y che kín người, đi
nơi xóm nhà; Tứ phần luật: Mặc y tề chỉnh, không có chi tiết “đi ở xóm
nhà”.
-
Điều 20 (không liếc nhìn hai bên khi đi). Luật tạng Pāli: Mắt phải nhìn
xuống; Tứ phần luật: Mắt không được nhìn liếc.
-
Điều 21 (không liếc nhìn hai bên khi ngồi). Luật tạng Pāli: Mắt phải
nhìn xuống; Tứ phần luật: Mắt không được nhìn liếc.
-
Điều 22 (không được nói khi đi vào nhà cư sĩ). Luật tạng Pāli: Nên nói
giọng nhỏ nhẹ, thấp giọng (appasaddo); Tứ phần luật: Nên im lặng
(tĩnh mặc 靜默).
-
Điều 23 (không được nói khi ngồi trong nhà cư sĩ).
-
Điều 28 (thọ nhận canh). Luật tạng Pāli: Nhận phần canh vừa đủ (samasūpakaṃ
piṇḍapātaṃ); Tứ phần luật: Nhận canh vừa ngang bát.
-
Điều 33 (không dùng cơm che khuất canh để xin thêm). Luật tạng Pāli:
Dùng cơm che khuất canh súp hoặc thức ăn; Tứ phần luật chỉ có chi tiết
cơm che canh, không có chi tiết thức ăn che thức ăn.
-
Điều 34 (không nhìn bát người bên cạnh rồi sinh tâm). Luật tạng Pāli:
Nhìn bát người với ý tìm lỗi, bất mãn; Tứ phần luật: Sinh tâm tỵ hiềm.
-
Điều 39 (không đưa cơm liên tục vào miệng). Luật tạng Pāli: Không được
đưa thức ăn vào một cách liên tục; Tứ phần luật: Không vắt cơm thảy vào
miệng.
-
Điều 44 (không nên lấy lưỡi liếm thức ăn). Luật tạng Pāli: Lấy lưỡi liếm
tay; Tứ phần luật: Lấy lưỡi liếm thức ăn.
-
Điều 48 (không nên đổ nước rửa bát ở nhà người). Luật tạng Pāli: Nước rửa
bình bát có lẫn cơm; Tứ phần luật không có chi tiết này.
-
Điều 58 (không nói pháp cho người không bệnh mà mang guốc gỗ). Luật tạng
Pāli: Người mang giày; Tứ phần luật: Người mang guốc gỗ.
2.4.
Nhóm 4: Hai
học giới có nội dung hoàn toàn khác nhau ở giữa hai bộ luật. Đó là điều 5 và
điều 6.
Điều
5. Tứ phần luật: Không quấn y nơi cổ khi vào nhà cư sĩ; Luật tạng
Pāli: Không múa máy tay chân khi đi vào nhà người.
Điều
6. Tứ phần luật: Không quấn y nơi cổ khi ngồi nhà cư sĩ; Luật tạng
Pāli: Không múa tay, quơ chân khi ngồi trong nhà cư sĩ.
Tổng
quát lại, tuy rằng số lượng học giới ở mỗi bộ luật có những điểm giống nhau lẫn
khác nhau nhưng trên tinh thần “ẩn ác dương thiện”, những điều học này vẫn có
giá trị riêng đặc biệt của chúng. Vì là những học giới nhỏ nhặt thuộc về oai
nghi nên nếu không ý thức chánh niệm, chúng ta rất dễ phạm phải. Do đó, chúng
ta phải chuyên tâm ghi nhớ để hành trì. Nếu cố tình vi phạm, nên đối trước
người kia thể hiện sự hối lỗi của mình; còn nếu trót phạm vì vô ý thì nên khởi
tâm tự trách chính mình và cố gắng không tái phạm. Như vậy, đó là cách thức sám
hối giải tội đối với Pháp chúng học.
3.
Giá trị cốt lõi và công năng tu tập của Pháp chúng học trong hai truyền thống
Luật tạng
Như
vậy, mặc dù tồn tại những khác biệt nhất định về số lượng học giới, hình thức
diễn đạt và cấu trúc trình bày trong hai hệ thống Luật tạng Pāli và Tứ phần
luật, song cả hai truyền thống đều cùng chung một định hướng căn bản: khẳng
định tầm quan trọng thiết yếu của Pháp chúng học như một phần không thể thiếu
trong quá trình rèn luyện ba nghiệp - thân, khẩu, ý - được thanh tịnh và điều
phục. Những học giới này tuy thuộc nhóm tội nhẹ (dukkata hay đột-kiết-la),
không làm mất giới thể Tỳ-kheo nếu vi phạm, nhưng lại có vị trí đặc biệt trong
toàn bộ hệ thống giới luật, bởi tính chất vi tế và phạm vi rộng lớn của nó đối
với từng hành vi nhỏ nhặt trong đời sống hàng ngày của người xuất gia.
Chính
vì vậy, có thể nói rằng Pháp chúng học chính là một cơ chế huấn luyện nội tâm
thông qua sự điều chỉnh liên tục các biểu hiện nơi thân và khẩu - như cách đi
đứng, nhìn ngó, ăn uống, nói năng, ứng xử - nhằm nuôi dưỡng chánh niệm, trưởng
dưỡng tàm quý và thể hiện sự đoan nghiêm, trang trọng của người hành trì giới
luật. Điều đáng lưu ý là, do những học giới này liên hệ mật thiết đến thói quen
sinh hoạt hàng ngày, vốn được huân tập từ lâu đời, nên việc trì giữ trọn vẹn
từng điều học không hề đơn giản. Sự vi phạm, dù là vô tình hay cố ý, đều có thể
dễ dàng xảy ra trong một khoảnh khắc thiếu tỉnh thức. Do đó, việc sám hối
thường xuyên - dù không bắt buộc đối với nhóm tội nhẹ - vẫn được khuyến khích
thực hành như một phương tiện thiết yếu để làm mới tâm thức, khơi dậy tâm tàm
quý và củng cố phạm hạnh của người xuất gia.
Việc
nghiên cứu và đối chiếu nhóm học giới trong hai truyền thống Luật tạng không
chỉ có giá trị học thuật ở phương diện làm sáng tỏ các điểm tương đồng và khác
biệt về nội dung, hình thức và phương pháp thực hành giới luật, mà còn mở ra
một góc nhìn sâu sắc về năng lực thích nghi của giới luật Phật giáo trong tiến
trình truyền thừa và triển khai tại các vùng văn hóa - xã hội khác nhau. Sự
chuyển hóa về mặt ngôn ngữ, cách thức chế giới, phạm vi ứng dụng và nghi thức
sám hối của Pháp chúng học trong mỗi hệ thống Luật tạng đều phản ánh tính linh
hoạt, mềm dẻo mà không đánh mất cốt lõi của tinh thần giới luật nguyên thủy do
Đức Phật thiết lập: đó là lấy sự nhiếp phục tâm và thanh tịnh hóa thân hành làm
nền tảng cho đời sống phạm hạnh.
Qua
đó có thể khẳng định rằng Pháp chúng học không đơn thuần là một hệ thống giới
luật hình thức, mang tính kỷ luật bên ngoài, mà còn là một pháp môn tu học sâu
sắc và thực tiễn. Việc hành trì những học giới này giúp hành giả thường xuyên
quay về chính mình, nhận diện các tập khí thô tế, và thiết lập chánh niệm trong
từng động tác thường nhật - từ cách bước chân, cúi đầu, đưa tay, đến việc tiếp
xúc với người khác một cách đúng mực. Nhờ đó, người xuất gia không chỉ giữ gìn
phẩm chất thanh tịnh trong nội tâm, mà còn góp phần biểu hiện hình ảnh trang
nghiêm, mẫu mực của Tăng đoàn trước mắt hàng cư sĩ và xã hội.
Tóm
lại, Pháp chúng học - dù là trong Luật
tạng Pāli hay Tứ phần luật - đều
là phương tiện trọng yếu giúp người xuất gia rèn luyện oai nghi tế hạnh, phát
triển nội tâm tỉnh giác và nuôi lớn lòng tàm quý. Việc so sánh hai hệ thống
không những làm sáng rõ các khác biệt mang tính lịch sử - văn hóa trong tiến
trình phát triển giới luật, mà còn nhấn mạnh tính nhất quán về mặt mục tiêu và
công năng của học giới: đó là sự hộ trì phạm hạnh và làm nền tảng cho đời sống
giải thoát của hàng Thánh đệ tử.
Kết
luận
Nghiên
cứu so sánh Pháp chúng học (Sekhiya) giữa Luật tạng Pāli và Tứ phần
luật cho thấy, dù cùng phát xuất từ giới bổn nguyên thủy do Đức Phật chế
định, hai hệ thống Luật tạng đã có những điểm tương đồng và dị biệt đáng kể
trong nội dung, hình thức diễn đạt và phương pháp thực hành. Điều này phản ánh
không chỉ sự khác biệt về môi trường văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ, mà còn cho
thấy tính năng động và khả năng thích ứng của giới luật Phật giáo qua tiến
trình truyền bá và triển khai trong các truyền thống khác nhau.
Xét
về bản chất, Pháp chúng học là nhóm giới thuộc loại nhẹ, không làm mất giới thể
khi vi phạm, nhưng có vai trò đặc biệt trong việc điều chỉnh oai nghi và rèn
luyện chánh niệm nơi thân, khẩu và ý của người xuất gia. Những điều học này tuy
đơn giản về hình thức, song đòi hỏi sự tỉnh thức và công phu tu tập bền bỉ để
có thể duy trì một cách trọn vẹn trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, đây không
chỉ là giới luật mang tính kỷ cương, mà còn là phương tiện thiết yếu trong quá
trình huấn luyện nội tâm, gìn giữ phẩm hạnh và biểu hiện tinh thần phạm hạnh
trước đại chúng.
Những
điểm giống nhau giữa hai hệ thống - như số lượng học giới căn bản, nội dung
hướng đến việc điều phục thân khẩu ý, và tinh thần hướng thượng - chứng minh sự
thống nhất trong tư tưởng giới luật Phật giáo. Ngược lại, các dị biệt phản ánh
sự thích nghi sáng tạo của giới luật khi đi vào các vùng văn hóa và hoàn cảnh
lịch sử khác nhau. Đây không phải là mâu thuẫn, mà là biểu hiện linh hoạt của
cùng một nguyên tắc: “tùy duyên bất biến” - tinh thần ứng cơ tiếp vật nhưng
không rời bản chất của con đường phạm hạnh.
Trong
bối cảnh hiện đại, khi đời sống xuất gia đối diện với nhiều thách thức về hình
ảnh, phẩm hạnh và khả năng hội nhập, việc quay về học hỏi các nhóm giới như
Pháp chúng học có ý nghĩa đặc biệt: giúp người tu trẻ rèn luyện tác phong đạo
đức, giữ gìn oai nghi trong đời sống thực tiễn, đồng thời củng cố niềm tin của hàng
Phật tử đối với Tăng bảo. Việc nghiên cứu giới luật không nên dừng lại ở bình
diện văn bản, mà cần được tiếp cận một cách liên tông, liên ngành, kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa học thuật và thực hành. Đây cũng là hướng đi cần
thiết để luật học Phật giáo tiếp tục đóng vai trò tích cực trong đời sống tu
tập và giáo dục Tăng tài trong thời đại mới.
Tài liệu tham khảo:
Đại phẩm, tập 1,
Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017.
Luật Tứ phần, tập 3, HT.
Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013.
Một số vấn đề
giới luật, HT. Thích Phước Sơn, NXB.Phương Đông, 2006.
Luật học
tinh yếu, HT. Thích Phước Sơn, NXB.Phương Đông, 2006.
Khuyến phát
Bồ-đề tâm văn, HT. Thích Tuyên Hóa dịch, NXB.Hồng Đức, 2016.
Pháp
thức và ý nghĩa hành trì giới luật,
TK. Tâm Hạnh soạn, NXB.Phương Đông, 2007.
Số thứ tự được đánh theo số
thứ tự trong Luật tạng Pāli.
Số thứ tự được đánh theo
trong Tứ phần luật. Vì nhiều điều giới nên tác giả không ghi lại nội
dung học giới, chỉ ghi số giới. Xem Tứ phần luật, tập 2.
Theo Pháp
thức và ý nghĩa hành trì giới luật, TK. Tâm Hạnh soạn, Tỳ-kheo-ni theo
truyền thống Thượng tọa bộ phải mặc y che kín người. Y nội phải mặc trên ngang
rún, cách đầu gối 8 ngón tay. Hơn nữa, thời Đức Phật còn tại thế (cả đến
Theravāda ngày nay, thêm Hệ phái Khất sĩ), quần tức là y nội (An-đà-hội) chứ
không có quần hai ống như ngày nay, mà lúc ấy chỉ có y che ghẻ và y tắm mưa.