Sơ khảo về Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn (1746-1804)

SƠ KHẢO VỀ THIỀN SƯ TOÀN CHƠN TH

SƠ KHẢO VỀ THIỀN SƯ TOÀN CHƠN THÀNH NHƠN (1746-1804)

                                                                           Thích Đồng Dưỡng 

 

Năm ngoái (2024), chúng tôi có dịp ghé thăm các tổ đình như Thập Tháp, Linh Sơn, Linh Phong thuộc tỉnh Bình Định cũ. Đó là cơ hội được tiếp xúc với nhiều tư liệu, quan trọng là tìm đọc trực tiếp di văn của ba ngôi tổ đình nổi tiếng bậc nhất tỉnh Bình Định. Đến chùa Linh Sơn, được biết chùa bị tàn phá trong chiến tranh Việt - Mỹ, nên chúng tôi chỉ chụp các long vị, bài vị, bia tháp của chư Tổ, cũng như văn chung và câu đối cổ của chùa[1]. Trong số long vị, bài vị chư Tổ, chúng tôi quan tâm đến các vị thiền sư phái Lâm Tế Chúc Thánh được phụng thờ tại tổ đường, mà đáng chú ý nhất là bài vị thờ Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn[2]. Đây là một vị thiền sư chưa từng được biết đến trong giới sử học Phật giáo. Việc công bố bài vị của thiền sư góp thêm sử liệu về Phật giáo thế kỷ XVIII, XIX tại miền Trung. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu bài vị.

            Bài vị được làm bằng gỗ sơn đỏ, kết cấu gồm đế tọa tháp với phần thân bài vị. Thân bài vị là tấm gỗ hình chữ nhật phẳng, bên ngoài chạm hồi văn. Bên trong lòng văn có 3 hàng chữ Hán, khắc chữ nổi, chữ ở hàng giữa được khắc to hơn hai hàng hai bên. Phía dưới có chạm mây hóa. Xin cung lục lòng văn như sau:

嗣臨濟正宗三十七世上誠下仁諱全真覺靈之

丙寅年不記月日時來,

甲子年四月十二日時去。

            Dịch nghĩa:

            Tòa vị của giác linh [thiền sư] trước Thành sau Nhơn húy Toàn Chơn đời 37 nối dòng Lâm Tế chính tông.

            Sinh năm Bính Dần, không ghi giờ, ngày, tháng,

            Mất giờ, ngày 12 tháng 4 năm Giáp Tý.

            Bài vị viết khá ngắn gọn ở hàng giữa, chữ cuối là chữ Tọa, đúng phải thêm chữ Vị vào mới rõ nghĩa. Dùng chữ giác linh mà không ghi đại sư, thiền sư hay Hòa thượng như các long vị thờ Tổ khác. Bài vị ghi tên “thượng mỗ tự, hạ mỗ tự”[3] sau đời pháp, chỉ tên hiệu, còn tên húy được ghi phía dưới. Điểm qua các long vị, bài vị ở chùa Linh Sơn thì có một số ít ghi tên hiệu trước rồi đến tên húy, một số khác lại có cách ghi tên húy rồi mới đến tự, hiệu. Giai đoạn sau này, tên húy hay dùng “thượng hạ”, còn tên hiệu thì ghi thẳng ra hai chữ. Đó là hai cách ghi thường thấy trong long vị, bài vị của chư Tổ trong các ngôi cổ tự ở miền Trung và miền Nam.

            Xét niên đại của bài vị, chúng tôi thấy có hai chữ không viết tỵ húy, đó là chữ Tông ở hàng giữa và chữ Thời ở hàng hai bên. Do vậy, bài vị phải được lập trước niên hiệu Thiệu Trị (1840-1846). Lạc khoản năm sinh dùng chữ “bất ký” với giờ, ngày, tháng, tức không rõ ngày tháng hoặc không ghi chép được ngày tháng. Bài vị chỉ ghi rõ năm là Bính Dần. Chữ “lai” có nghĩa là đến, cũng chỉ cho sự ra đời, đến cõi đời này, tức đồng nghĩa với chữ “sinh”. Chữ “khứ” ở lạc khoản bên trái, nghĩa ra đi, trái nghĩa với chữ “lai”, chỉ qua đời, mất, tức đồng nghĩa với chữ “tử”. Từ đó, diễn dịch thiền sư sinh năm Bính Dần và tịch ngày 12 tháng 4 năm Giáp Tý. Căn cứ Niên biểu Việt Nam, năm Giáp Tý có các năm như 1684, 1744, 1804, 1864, 1924, 1984[4]. Vì không viết tỵ húy triều Thiệu Trị, Tự Đức nên loại bỏ các năm 1864, 1924, 1984. Chúng tôi chọn năm 1804 là thích hợp nhất. Từ đó suy ra năm sinh Bính Dần là năm 1746. Thiền sư chỉ thọ 59 tuổi.

            Theo bài vị, thiền sư có tên húy tức pháp danh là Toàn Chơn hiệu Thành Nhơn. Chúng tôi đọc âm địa phương miền Trung, chữ Nhân đọc thành Nhơn và chữ Chân đọc thành Chơn. Chữ Toàn, chữ đầu của tên húy, tức pháp danh mà bài vị ghi đời 37 dòng Lâm Tế chính tông thì thiền sư phải thuộc kệ phái Lâm Tế Chúc Thánh. Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh do Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo (1670-1746) tục kệ truyền pháp, với bốn câu đầu đặt pháp danh, bốn câu tiếp theo đặt pháp tự[5]. Xin cung lục bài kệ như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương,

Ấn chơn như thị đồng.

Chúc thánh thọ thiên cửu,

Kỳ quốc tộ địa trường.

Đắc chánh luật vi tông,

Tổ đạo giải hành thông.

Giác hoa Bồ-đề thọ,

Sung mãn thiên nhân trung”.

Hòa thượng Minh Hải Pháp Bảo (1670-1746) đời 34 phái Lâm Tế, tính tiếp đến chữ Toàn đúng đời 37. Do vậy, Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn thuộc về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn chỉ có pháp danh và đạo hiệu, không có pháp tự như các thiền sư khác của bản phái, giống với trường hợp Hòa thượng Toàn Tín Đức Thành (1751-1839)[6], Tổ khai sơn chùa Thanh Long gần đó. Hòa thượng Toàn Tín Đức Thành là đệ tử của Hòa thượng Pháp Chuyên Luật Truyền (1726-1798) chùa Từ Quang (Phú Yên)[7]. Hai vị đều hành đạo gần nhau và cùng đời pháp nên tham chiếu tư liệu ghi chép về Hòa thượng Pháp Chuyên Luật Truyền để truy tìm Thiền sư Thành Nhơn.

Cách đây 10 năm, chúng tôi từng công bố văn bản Từ Quang tự Sa-môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm Thiền sư nhân do sự tích chí (gọi tắt là Sự tích chí) trên Tập san Suối Nguồn, số 13. Đây là văn bản ghi chép hành trạng Thiền sư Pháp Chuyên Luật Truyền mà tra vào gần cuối văn bản, đoạn “Pháp tự truyền đăng” liệt kê 28 vị đệ tử và điều thú vị là vị thứ 14 có tên Thành Nhơn 誠仁, chữ chép giống với bài vị chùa Linh Sơn. Danh sách 28 vị đệ tử truyền đăng viết tên theo đạo hiệu, nên phải có tư liệu bổ sung mới biết chính xác từng vị. Khi công bố bài khảo cứu trên, chúng tôi chỉ biết một số vị nổi tiếng như Hòa thượng Toàn Đức Thiệu Long (1763-1847) (chùa Khánh Sơn), Toàn Đạo Viên Đàm (1769-1838) (chùa Đức Xuân), Toàn Nghĩa Chơn Thường (1764-1839) (chùa Thượng Tiên Quang), Toàn Thể Linh Nguyên (1765-1844) (chùa Từ Quang và chùa Long Tường), Toàn Thiện Đức Hoằng (1754-1823) (chùa Phổ Bảo), Toàn Tín Đức Thành (chùa Thanh Long). Đến nay chúng ta tìm thêm được một vị trong số 28 vị đệ tử truyền đăng của Hòa thượng Pháp Chuyên Luật Truyền, là Thiền sư Toàn Nhơn Thành Chơn được lập bài vị phụng thờ tại chùa Linh Sơn.

Trong số các vị đệ tử của Hòa thượng Pháp Chuyên Luật Truyền có Hòa thượng Toàn Tín Đức Thành về lập chùa Thanh Long mà nay chỉ còn phế tích tại thôn Chánh Nhơn, cùng xã với chùa Linh Sơn. Hòa thượng Toàn Thể Linh Nguyên (1765-1844) kế thế trụ trì chùa Từ Quang (Phú Yên), sau đó về quê lập chùa Long Đức, nay là chùa Long Tường thuộc huyện Tuy Phước. Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn là vị thứ ba trong số 28 vị đệ tử, về hành đạo tại Bình Định. Từ đây truy ngược lại niên đại thì việc đổi từ năm âm lịch sang năm dương lịch của chúng tôi là có cơ sở chắc chắn.

Chúng ta chưa rõ Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn có trụ trì chùa Linh Sơn không. Khi đi xem các tháp mộ tại đây, có hai ngôi tháp phía sau chùa, trong đó có tháp của Thiền sư Toàn Nhơn Thành Chơn và tháp kia của Thiền sư Chiếu Hưng mà bài vị trong nhà tổ ghi tên húy là Phật Hạnh - đời 35 phái Lâm Tế. Kiểm tra quả chuông tại chùa thì chuông đúc năm 1804, do đương gia là Đại sư Tổ Chúc đứng ra chủ trì, dưới sự chứng minh của Đại sư Tế Triết Từ Diệp, một vị thủ tọa chùa Linh Sơn. Năm này, Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn viên tịch, điều đó cho thấy, thiền sư cao niên mới đến ngụ chùa Linh Sơn như Đại sư Toàn Thái Phước Long (1767-1838) mà bài vị và tháp mộ nằm sau núi. Linh Sơn xưa là chốn lan nhã quy mô, nên được nhiều bậc thiền trượng đến tĩnh tu và hành đạo. Do vậy, trên tổ đường còn phụng thờ nhiều long vị, bài vị chư Tổ của hai dòng thiền Nguyên Thiều Thọ Tông và Chúc Thánh.

Sử liệu về Thiền sư Toàn Chơn Thành Nhơn khá hiếm, ngoài bài vị còn có bia tháp. Sự tích chí giúp chúng ta nối kết thầy trò và nhận ra thiền sư là một vị đệ tử truyền đăng của Hòa thượng Pháp Chuyên Luật Truyền. Nhìn khung niên đại 1746-1804, chúng ta nhận ra Thiền sư Thành Nhơn xuất gia muộn, đi tu và hành đạo trong giai đoạn đất nước đầy biến động. Có thể thấy thiền sư phải là người kiên định với ý tưởng, và theo chân Hòa thượng Pháp Chuyên đi hành hóa khắp hai phủ Quy Nhơn, Phú Yên. Đến những thập niên cuối thế kỷ XVIII, thiền sư mới dừng chân tại Bình Định và hành đạo cho đến cuối đời. Tuổi cao, ngài an thiền tại Linh Sơn, viên tịch và nhập tháp tại vườn chùa. Tấm bia tháp không ghi thông tin gì nhiều nên chúng ta chưa rõ thiền sư có đệ tử kế thừa không. Bài viết nhỏ mong rằng sau này sẽ tìm thêm được sử liệu về Thiền sư Thành Chơn, nhằm công bố một hành trạng đầy đủ về đạo nghiệp của thiền sư.

                        Hoài cổ lâu, sau trận bão số 10 (Bualoi) tháng 9 năm 2025.

           

 


 

[1] Chùa còn câu đối ngự đề của quốc vương Từ Tế đạo nhân, câu thứ nhất phần trên bị hư mất, nên chưa rõ niên đại tạo lập.

[2] Bài vị ghi đạo hiệu trước pháp danh. Thông thường ở Việt Nam thì ghi pháp danh trước đạo hiệu cho tiện việc tra cứu.

[3] Theo Sa-di luật nghi yếu lược tăng chú, đó là cách gọi tôn xưng pháp danh của một vị thầy bổn sư, khi một vị nào đó hỏi về danh hiệu của thầy mình.

[4] Vụ Bảo tồn bảo tàng (1970), Niên biểu Việt Nam, NXB.Khoa học xã hội, Hà nội, tr.62.

[5] Đây là điểm đặc biệt của bài kệ Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, mà các bài kệ phái khác chỉ chọn chữ đặt pháp danh mà thôi.

[6] Căn cứ bài vị thờ Hòa thượng Toàn Tín Đức Thành tại chùa Hưng Khánh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Bài vị ghi rõ năm sinh, năm tịch của Hòa thượng.

[7] Tham khảo Thích Đồng Dưỡng (2014), Văn bản Từ Quang tự Sa-môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm Thiền sư nhân do sự tích chí, Tập san Suối Nguồn, số 13, tr.65.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác