Thầy Tuệ Sỹ, người Nghệ sĩ và Nhà tu thoát tục
thay tue sy
Thầy Tuệ Sỹ, người Nghệ sĩ và Nhà tu thoát tục
"Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.” (thơ Tuệ Sỹ)
Quán
trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến
Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói
gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi
động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ
nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ.
Nhưng
hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn
bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn
thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa
cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh
chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì.
Thầy
Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học
Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:
“Thơ
bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử;
ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống
hàng ngày; nhưng ở Tuệ Sỹ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường
như đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát,
khó bề lý giải chân phương và đơn phương.”
Thầy
Tuệ Sỹ là một người có tâm hồn rất nghệ sĩ. Thầy yêu thơ và nhạc. Thầy
viết trong bài “Lục Bát Viên Linh,” giới thiệu tập thơ “Thủy Mộ Quan”
của nhà thơ Viên Linh rằng, “Không biết tự bao giờ, là thiên mệnh, hay là huyền sử, tôi đọc thơ và yêu thơ từ những chuyện lãng du.”
Thầy
biết chơi nhiều loại nhạc cụ như đàn piano, đàn violin, đàn guitar, và
sáo. Tôi nghe nhiều người bạn kể rằng, Thầy Tuệ Sỹ học đàn violin từ
một Linh mục là bạn của Thầy. Điều khá thú vị trong câu chuyện này là
trước khi học thì Thầy và vị Linh mục có giao ước rằng, vị Linh mục dạy
violin cho Thầy, còn Thầy thì dạy chữ Phạn cho vị Linh mục đó. Nhưng,
trong khi Thầy đã học và biết chơi đàn violin thì vị Linh mục kia vẫn
chưa học xong chữ Phạn. Thật ra thì chuyện này cũng không khó hiểu lắm,
bởi vì Thầy bẩm sinh có năng khiếu về văn học nghệ thuật. Còn vị Linh
mục được đào luyện trong truyền thống thần học La Tinh thì đối với cổ
ngữ Sanskrit là hoàn toàn xa lạ.
Tôi
còn nhớ vào giữa tháng 10 năm 2004, khi một vài học trò năm xưa của
Thầy gọi điện thoại từ hải ngoại về hầu thăm vị ân sư của mình, Thầy
Tuệ Sỹ nói rằng Thầy có ý định soạn các bản nhạc giao hưởng (symphony)
Phật Giáo để cho trình diễn. Rất tiếc, vì Thầy bận nhiều công việc dịch
thuật, giảng dạy và Phật sự của Giáo Hội, rồi sau đó thì bệnh duyên kéo
đến nên Thầy đã không làm được. Một cách nào đó, đây là một mất mát lớn
lao đối với nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam. Quả thật như vậy, Phật Giáo
chúng ta thiếu những bản nhạc giao hưởng lớn để trình diễn trong các
đại lễ để góp phần vào việc hoằng pháp hữu hiệu hơn.
Thầy
Tuệ Sỹ còn là nhà văn, nhà thơ trác tuyệt. Thầy viết nhiều truyện ngắn
và làm nhiều bài thơ được nhiều người ưa thích. Hiện có mấy thi phẩm
của Thầy đã được phổ biến như “Ngục Trung Mỵ Ngữ” (bằng chữ Hán, làm
trong thời gian Thầy ở tù lần đầu vào cuối thập niên 1970s); “Giấc Mơ
Trường Sơn” (gồm vài bài thơ Thầy làm trước năm 1975, còn hầu hết đều
được làm sau năm 1975); “Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm” (được xuất bản
vào năm 2009); “Thiên Lý Độc Hành” (được Thầy làm trong khoảng những
năm 2011 và 2012). Thầy còn viết một tác phẩm nổi tiếng về nhà thơ Tô
Đông Pha ở thời Nhà Tống của Trung Hoa là cuốn “Tô Đông Pha Những
Phương Trời Viễn Mộng.”
Nhắc
đến tác phẩm “Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng,” tôi nhớ đến bài
viết “Cụ Quách Tấn, cụ Đào Duy Anh và thầy Tuệ Sỹ” của Thầy Phước An.
Trong đó Thầy Phước An kể lại chuyện nhà thơ Quách Tấn đã có lần nói về
tác phẩm này rằng, “Tôi
nhớ có một lần ông [Quách Tấn] đã nói với tôi rằng, ở Việt Nam có hai
tác phẩm viết về Tô Đông Pha (một đại thi hào nhà Tống của Trung Quốc),
một của Nguyễn Hiến Lê và một của Tuệ Sỹ. Nhưng theo ông, Nguyễn Hiến
Lê chỉ mới đứng từ xa mà nhìn ngọn Lô Sơn, còn Tuệ Sỹ thì mới đích thực
là kẻ đã vào được ‘thâm xứ’ ấy.”
Cũng
trong bài này, Thầy Phước An còn kể chuyện học giả Đào Duy Anh sau năm
1975 khi vào Nha Trang thăm nhà thơ Quách Tấn có hỏi cụ Quách Tấn là
ông nên đến thăm ai, thì cụ Quách Tấn nói ngay là nên đến thăm Thầy Tuệ
Sỹ. Nên cụ Đào Duy Anh đã leo núi lên Chùa Hải Đức ở Nha Trang để thăm
Thầy Tuệ Sỹ. Thầy Phước An kể tiếp rằng, “Khi
tiễn Đào Duy Anh xuống núi, ông cứ đi một đoạn là dừng lại bắt tay anh
Tuệ Sỹ, những cái bắt tay rất chặt. Cứ như vậy ông bắt tay cho đến khi
xuống cuối dốc chùa mới thôi. Điều ấy chứng tỏ rằng Đào Duy Anh rất
trân trọng về cuộc gặp gỡ này.”
Nhà
thơ Bùi Giáng vào năm 1969 đã có bài bình luận rất đặc sắc về bài thơ
“Không Đề” của Thầy Tuệ Sỹ. Trong đó nhà thơ Bùi Giáng viết rằng, “Nhưng
ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy,
lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của
ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ.” Bài thơ Không Đề như sau:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Thường
chúng ta nghĩ rằng nghệ sĩ là người đa sầu đa cảm. Tất nhiên, đó cũng
chính là ưu điểm của người nghệ sĩ mà người bình thường không có. Nhờ
có tâm hồn nhạy bén, đa sầu đa cảm mà người nghệ sĩ dễ cảm xúc, dễ rung
động trước mọi thứ xảy ra chung quanh mình để cho trái tim rung lên
những nhịp điệu sáng tạo thành lời, thành chữ. Nhưng, đa sầu đa cảm
cũng chính là tâm thức ủy mị, yếu đuối của người nghệ sĩ dễ bị nhận
chìm trong vòng xoáy của buồn, vui, yêu, ghét, sầu, hận.
Thầy
Tuệ Sỹ trong cuốn “Huyền Thoại Duy Ma Cật,” một luận giải uyên áo về
con người, tư tưởng và hành trạng của Bồ-tát Duy Ma Cật, đã viết về
người nghệ sĩ như sau:
“Người
nghệ sỹ nắm bắt thực tại bằng nhận thức mỹ cảm, nhặt vô biên trong một
hạt cát, đón vĩnh cửu trong từng khoảnh khắc sát na. Chất liệu để ông
làm rung động âm thanh tịnh lạc bằng chính những tiếng khóc, tiếng cười
của mọi chúng sinh trong đau khổ hay hoan lạc, từ trên các tầng trời
cao nhất của Vô sắc giới, cho đến cõi đọa đày thống khổ nhất trong địa
ngục A-tỳ.”
Là
một nghệ sĩ biết rung động với tiếng khóc, tiếng cười, nỗi đau khổ và
hoan lạc của chúng sinh thì không thể nói là không có tình cảm hay là
tình yêu. Nếu không có tình cảm thì là gỗ đá chứ không phải là hữu
tình, là con người. Ở thế gian, tình yêu không đơn thuần chỉ là tình
trường nam nữ với lòng khát ái câu sinh, mà còn là tình yêu nét đẹp
diệu kỳ của thiên nhiên, tình yêu cao cả trong mối quan hệ huyết thống
gia đình và tình tự quốc gia dân tộc… Tình yêu của người mẹ dành cho
con cái của mình là thứ tình yêu thiêng liêng và cao quý. Nó miên
trường bất tận như dòng thác từ trên cao đổ xuống. Nó là chất liệu nuôi
dưỡng những đứa con từ măng non đến trưởng thành. Thầy Tuệ Sỹ đã chỉ
cho chúng ta thấy sự huyền diệu bất khả tư nghì của tình yêu trong cuốn
“Thắng Man Giảng Luận” của Thầy:
“Tình
yêu là cơn bão dữ nhận chìm con người xuống biển sâu của nước mắt,
nhưng đồng thời tình yêu cũng là hương vị ngọt ngào nuôi lớn thánh thai
của Bồ-tát. Trong ý nghĩa đó tình yêu được đồng nhất với Như Lai tạng,
cái bào thai cưu mang để sinh trưởng những phẩm tính siêu việt của Như
Lai, của những đấng Giác ngộ và Cứu thế. Nó bao gồm cả hai mặt, ô nhiễm
và thanh tịnh.
“Cái
nhìn của con mắt thịt không bao giờ có thể vượt ra ngoài hạn chế của
không gian. Nhưng cái nhìn của con mắt tình yêu không hề biết đến những
giới hạn như thế. Tình yêu có khả năng thực hiện những phép lạ, những
thần thông biến hóa vượt ngoài ước lượng và hiểu biết của một tâm hồn
khô héo.
“Làm
sao người ta có thể nghe được những lời ru ngọt ngào của suối rừng, của
gió núi, khi mà tâm tư không gợi chút xao xuyến của tình yêu?”
Như
thế, tình yêu dù trong ý nghĩa thế tục hay thoát tục cũng đều là nguồn
mạch bất tận cho văn học và nghệ thuật. Điều khác biệt ở đây là tâm
thái nhà nghệ sĩ: động hay tịnh. Động thì lụy mà tịnh thì thoát. Nhưng
trong một ý nghĩa nào đó thì động và tịnh chỉ cách nhau trong một sát
na tâm. Nhà nghệ sĩ khi nhìn thấu suốt vào bản chất động hay sinh diệt
không dừng trụ trong từng sát na của tâm thì biết rõ chúng không có tự
tánh, chúng là giả danh, là không. Như vậy, ở ngay trong cái động, nhà
nghệ sĩ thấy cái tịnh. Cho nên trong Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết do Thầy
Tuệ Sỹ dịch, ngài Duy Ma Cật nói rằng, “Ngôn thuyết và văn tự đều là tướng của giải thoát.”
Trong
tiểu luận “Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo,” Thầy Tuệ Sỹ đã nói đến
hai nền văn học Phật Giáo, đó là nền văn học của Phật Giáo Nguyên Thủy
và nền văn học Đại Thừa. Theo Thầy Tuệ Sỹ, cả hai nền văn học đều lấy
cảm hứng từ đời sống “cô liêu” của đức Phật và các vị tỳ-kheo làm chất
liệu sáng tác cho các nhà nghệ sĩ Phật Giáo. Đó là đời sống “Một bình bát với cơm ăn của thiên hạ. Một mình lẻ bóng lang thang trên khắp mọi nẻo đường” (Nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du). Trong cuốn “Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo,” Thầy đã viết:
“Rồi
ra, hương vị của chánh pháp là gì? Chính là sự cô liêu ấy. Chánh pháp
là dòng suối mát và ngọt của sự sống, rửa sạch tất cả những uế trược
của cuộc đời. Bởi vậy, một tâm hồn khi đã chứng nhập chánh pháp, cũng
trong và mát như dòng suối ngọt ấy. Kinh Pháp cú (Dhammapada) có câu:
‘Ai đã từng nếm mùi vị cô liêu, người ấy càng ưa nếm hương vị của Chánh
pháp.’
“Vậy ra, đời sống cô liêu không chỉ là con đường hành đạo, mà còn là kết quả của những hành vi đã rủ sạch mọi bất tịnh.”
Thầy
Tuệ Sỹ cũng cho biết rằng trong văn học Đại Thừa thì sự cô liêu ấy đã
đạt đến “cường độ khốc liệt và cực đoan hơn,” hay đó chính là sự “cô
liêu tuyệt đối.” Thầy viết trong “Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo”:
“Và
cả nơi Đại thừa, nhưng với cường độ khốc liệt và cực đoan hơn: ‘Nhất
thiết vô úy nhân, nhất đạo xuất sinh tử’; tất cả các bậc Vô úy, không
còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của
sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính tịch diệt của
Niết-bàn, nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối.”
Nhà
tu trên con đường thực nghiệm lời dạy của đức Phật để đạt đến giác ngộ
và giải thoát cứu cánh đích thị là người có đời sống cô liêu cùng tận.
Cô liêu ở đây không chỉ là một đời sống cô thân xa lánh những phồn hoa
đô hội, những chỗ đông người, mà còn là trạng thái tịch lặng không còn
các uế trược trong tâm, là một tâm hồn rỗng lặng. Như vậy, nhà tu cho
dù đang sống trong lòng xã hội, hay giữa cộng đồng Tăng già đông đảo
vẫn có thể thể nghiệm trạng thái cô liêu của tâm thức.
Cô
liêu cũng là chất liệu bất tận cho sự sáng tạo văn học nghệ thuật nói
chung. Với tâm tĩnh lặng này, người nghệ sĩ có được sự bén nhạy phi
thường đối với tất cả mọi hiện tượng xảy ra chung quanh mình. Giống như
tấm gương trong sạch có thể phản chiếu mọi vật lên đó một cách tự nhiên
và trọn vẹn. Khi người nghệ sĩ đắm mình trong những giây phút sáng tạo
tuyệt vời, chẳng phải là họ đang thể nghiệm sự cô đơn tận cùng trong
tâm thức đó sao!
Nhà văn Ernest Miller Hemingway trong bài phát bỉểu khi nhận Giải Nobel Văn Chương năm 1954 đã nói rằng, “Viết lách, tốt nhất, là sống cô đơn.” Và
ông đã viết cuốn tiểu thuyết “The Old Man and the Sea” [Nhà văn Phùng
Khánh dịch là Ngư Ông và Biển Cả] trong chuyến phiêu lưu cô đơn hiu hắc
trên biển cả mênh mông.
Thầy Tuệ Sỹ đã viết trong bài “Lục Bát Viên Linh”:
“Thế
giới thơ – cõi thơ, và thế giới thực của người làm thơ, không là một,
và cũng không là hai. Buồn vui với chính mình, với tình đời và tình
người, người làm thơ trong khoảnh khắc tan biến vào một thế giới hoang
liêu.”
Cuộc
đời của Thầy Tuệ Sỹ là một hành trình cô liêu. Từ nhỏ Thầy đã chọn cuộc
sống độc hành trên con đường học đạo và tu đạo. Thầy tự học các thứ,
ngôn ngữ, âm nhạc, thư pháp. Thầy tự nghiên cứu các triết thuyết từ
Đông sang Tây. Thầy âm thầm và tận tụy không bỏ mất một chút thời gian
nào để cống hiến khả năng xuất chúng cho công cuộc phiên dịch, diễn
giải và trước tác Kinh, Luật và Luận.
Thầy
Tuệ Sỹ đã thực hiện, hay nói cho đúng hơn là đã lịch nghiệm sự cô liêu
tận cùng vào năm 2011-12 trong chuyến đi ngàn dặm xa xôi bằng đường bộ
từ thị thành đến làng mạc và rừng núi hoang vu. Trên chuyến độc hành
này, Thầy đã xin ăn như một khất sĩ, đã ngủ đêm trước cổng chùa hay
trong miễu hoang nơi núi rừng cô tịch. Từ cuộc hành trình cô liêu này
mà chúng ta có được tập thơ “Thiên Lý Độc Hành” của Thầy. Hai đoạn đầu
của tập thơ này như sau:
Ta về một cõi tâm không
Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn
Còn yêu một thuở đi hoang
Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya
Ta đi dẫm nắng bên đèo
Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều
Nguyên sơ là dáng yêu kiều
Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ
Còn đây góc núi trơ vơ
Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao
Hình
ảnh một lữ hành đứng trên đỉnh cao dõi mắt nhìn ra khắp vũ trụ pháp
giới là hình ảnh một đạo sĩ thể nhập vào thế giới trùng trùng duyên
khởi để rồi lập lại đại nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát: Hư không hữu tận,
ngã nguyện vô cùng.
Nói tóm lại, Thầy đã chọn cho mình một lý tưởng hành động như Thầy đã viết ra trong bài “Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo”:
“Nói
cách khác, trong lý tưởng hành động, trước tiên Bồ tát phải quan sát để
thể chứng tánh Không. Tức là, sự xuất hiện của thế gian như hoa đốm
giữa trời, bản chất của nó không bị ràng buộc bởi ý nghĩa xuất hiện hay
biến mất. Từ sở chứng đó, Trí tuệ không bị ràng buộc giữa hữu hay vô,
và chính nơi đây là cứ điểm để Bồ-tát thể hiện tâm nguyện Đại bi của
mình.”
Bằng
trí tuệ siêu thoát và tâm đại bi vô biên ấy mà Thầy đã sống cuộc đời
nghệ sĩ và nhà tu một cách dung thông vô ngại. Ở nơi Thầy, nghệ sĩ và
nhà tu không phải hai, không phải khác. Đó chỉ là hai diệu dụng trong
một con người ưu việt và thoát tục.
Nhân
lễ Đại Tường tưởng niệm 2 năm sau ngày Thầy viên tịch, xin viết những
dòng chữ này để tỏ bày lòng tri ân sâu xa của một người học trò đã từng
thọ ơn giáo dưỡng của Thầy.
Huỳnh Kim Quang: