Nguyễn Lương Vỵ thi nhân bất tuyệt hòa âm

NGUYỄN LƯƠNG VỴ THI NHÂN NHẬT NGUYỆT HÒA ÂM

 

 

Trời đất mênh mang sương khói, một thời thơ trẻ dại, bàng bạc nắng quái u buồn nơi quê nhà giữa hai đầu biển núi lung linh. Sinh năm 1952 ở Quán Rường, Tam Kỳ, thuộc tỉnh Quảng Nam, một chốn miền “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đà say” ấy, Nguyễn Lương Vỵ lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh có năng khiếu làm thơ, đặc biệt được ông nội ( nguyên là một nhà Nho, có thời kỳ làm chánh tổng ) trực tiếp truyền dạy các loại thơ tứ tuyệt, Đường luật, nên biết mần thơ ngay từ lúc 12, 13 tuổi, thuở còn chạy rông chơi bên mấy cổ tháp rêu phong Chiên Đàn, cạnh dòng sông Tam Kỳ và bãi biển Tam Thanh xanh biếc mộng.

 

Không biết đất trời có muốn đẩy xô chàng vào cái nghiệp thi sĩ bị đày đọa hay chăng mà bắt chàng phải mồ côi cha hồi mới 13 tuổi, sớm chịu cảnh bơ vơ ? Sờ sững, kinh hoàng, nhưng chàng không gục ngã mà đứng bật dậy trên hai chân gầy sậy yếu, mở trừng trừng đôi mắt, giáp mặt với tận cùng điêu linh của tồn sinh bức bách để băng qua trùng trùng chông gai, chướng ngại, vượt qua cả ngàn oan khiên, nghiệt ngã và đã tựu thành mảnh bằng Cử nhân Triết ở Viện đại học Vạn Hạnh, trước năm 1975.

 

Tâm hồn sớm hun đúc trong nỗi buồn đau thân phận kiếp người, ngậm ngùi uống cạn chén đắng cay đầy lệ trào máu ứa, không ngừng nhức nhối trước bao bão lốc khốc liệt, khiến cho hồn thơ chàng chan chứa màu huyết lệ, trộn lẫn thanh âm trầm túy dị thường. Nước mắt, mồ hôi lặng trào qua những phương trời gió loạn, phát xuất từ hố thẳm tâm tư dữ dội, kỳ lạ và đã dồn tụ lại tinh hoa, tinh túy quanh vườn lòng kết trái đơm chồi nẩy lộc thành những thi phẩm : Âm Vang Và Sắc Màu ( 1991 ) Phương Ý ( 2000 ) Hòa Âm Âm Âm Âm… ( 2007 ) Huyết Âm ( 2008 ) Tinh Âm ( 2010) Bốn Câu Thất Huyền Âm ( 2011 ) Tám Câu Lục Huyền Âm ( 2013 ) Năm Chữ Năm Câu ( 2014 ) và sắp ấn hành Tổng Tập Thơ 45 Năm ( 1969 – 2014 ) như để tổng kết bốn bề, dồn lại tinh anh, cốt tủy một đời thiết tha tận hiến tuyệt cùng cho nghệ thuật thi ca. Trừ hai tập Âm Vang Và Sắc Màu, Phương Ý, sáng tác tại quê nhà thân thiết Việt Nam, còn sáu tập sau đều được làm trên đất khách tha hương, kể từ năm 2001, ở tận chân trời xa xăm bên kia đại dương nước Mỹ. Thế là thấm thoát cũng gần 15 năm trời khơi vơi đằng đẵng, chàng thi sĩ phiêu linh, lãng bạt ngàn phương viễn xứ, rồi định cư lâu dài nơi xứ sở Hoa Kỳ xa nghi ngút khói mây bay.

 

Mây gió thời gian rộn ràng lượn vờn về quá khứ, từ năm 1969, mới 17 tuổi, thơ Nguyễn Lương Vỵ đã có mặt trên các tạp chí Văn, Khởi Hành rồi tiếp tục đăng ở các tập san Thời Tập, Văn Chương những năm sau đó. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên trên các tạp chí, tập san văn nghệ ở Sài Gòn, thơ Nguyễn Lương Vỵ liền được anh em văn nghệ bốn phương đánh giá khá cao, vì thơ có chất giọng riêng biệt, độc đáo, cô đọng với những bài tứ tuyệt hàm súc, lung linh mới lạ như Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng :

 

Lung linh hồn quê cũ

Mây trắng phủ khắp trời

Nhớ trăng khô hết máu

Muôn trùng dặm núi ơi…

 

Lời thơ ngậm ngùi một nỗi đau thời đại, một niềm u hoài sầu nhân thế thê lương. Sống bồng bềnh, bấp bênh trong thời buổi chiến tranh đang diễn ra tàn khốc trên khắp quê hương xứ sở, đêm ngày phải chứng kiến biết bao cảnh tang thương, chết chóc, khổ lụy đoạn trường, nên nhà thơ nhạy cảm sầu vô hạn man thiên. Biết làm chi hơn là lắng hồn vào âm nhạc, tìm nguôi ngoai, khuây khỏa qua từng cung cầm sâu lắng Beethoven, những âm thanh trầm hùng bất tận. Năm 1973 tập san Văn Chương đăng bài thơ Âm Nhạc của chàng, có dòng ghi tưởng nhớ Beethoven, một nhạc sĩ người Đức, dạt dào bản giao hưởng số 5 thấm thía sầu câm nhập máu tim hồn :

 

Âm nhập cốt

Âm binh phiêu hốt tiếng tru

Ta tru một kiếp cho mù mắt

Mù lệ đề thơ để nhớ đời

À ơi ! Rượu đỏ hoàng hôn tắt

Ta dắt hồn ta túy lúy chơi !

 

Âm nhập cốt

Âm vàng mấy gót hồ ly

Vạn kỷ cung thương còn réo rắt

Còn ru ta mãi quãng đời xanh

À ơi ! Ai hát ngoài phương Bắc

Chờ nhau, tinh đẩu sáng long lanh

 

Tiếng đá ngân nga chìm giếng lạnh

Sói đầu mây bạc, áng thiên tinh

Ô hô ! Quan tái đà xao xuyến

Giọt máu năm xưa đã tượng hình

 

Lâng lâng tinh khí xuất luân hồi

Nguyệt thở, thơ bay rợp nắng đồi

Khuya khoắt ta nằm trong lá mới

Dìu nhau hoan lạc quỷ nương ơi…

 

Quỷ nương cốt đá, ta cốt mây

Ôm ấp ngàn thu sương chớp vây

Trống mái ướt dầm cung bậc chín

Reo suối thinh không, đợt sóng gầy

 

Thạch cầm vỡ

Ngàn năm thơ thẩn với âm vang

Ta ôm trời đất sầu vô hạn

Thương nhớ Thanh Xuân mộng úa tàn

À ơi ! Dâu bể chưa khô cạn

Chưa dứt tâm tư, vọng ngút ngàn…

 

Bài thơ ngân dài những âm vang nghẹn ngào cô độc của chàng thi sĩ cô đơn rờn lạnh, một mình một bóng trong tàn xiêu hiu hắt, lặng hồn nghiêng xuống hố thẳm uyên nguyên, chạm đến mạch ngầm hư linh cùng tuyệt, vì được nuôi dưỡng, cưu mang bằng hồn trăng thiên cổ với những chất liệu diệu kỳ của âm nhạc Beethoven dung nhiếp nhiệm mầu. Niềm đau thân phận lạc loài lắng dịu đi phần nào là cũng nhờ chàng say mê âm nhạc cổ điển Tây phương, say mê đến lạ lùng, nhất là bản giao hưởng số 5 của người nhạc sĩ thiên tài này.

 

Ngày tháng buồn tênh, ngơ ngác vạn cổ sầu. Đau khổ trào tuôn theo gót lữ lênh đênh lưu lạc, chàng thi sĩ bơ vơ phải sớm rời khỏi gia đình, tự bươn chải, mưu sinh kiếm sống để tiếp tục việc học hành qua các phố thị Đà Nẵng, Quy Nhơn, Sài Gòn, thành thử chàng hay lặng lẽ, khép kín như muốn che dấu bi kịch điêu linh của bản thân mình, ngay cả với những người bạn chí thiết, Nguyễn Lương Vỵ cũng không hề hé răng kể lể. Tuy nhiên qua bài thơ Nói Với Người Đã Khuất, chàng lại thổ lộ niềm đau thấu ruột bầm gan ngàn nhói buốt :

 

Muôn trước muôn sau là hạt bụi

Đất trời đa sự vẫn hồn nhiên

Như nhiên ?! Bụi vẫn bay lầm lũi

Sương núi mây ngàn một cõi riêng

 

Bụi bay có một thằng con nít

Đầu chít khăn tang ngó sửng đời

Đời vốn mồ côi từ lịch kiếp

Con nít mồ côi cũng thế thôi !!!

 

Ngày sặc máu nuôi thân thơ dại

Đêm xanh xương tái mặt nhớ mồ

Mồ chôn xác tươi màu nắng quái

Nắng tung ngần một bãi hư vô

 

Thằng con nít âm thầm đi biệt

Bay và bay hạt bụi khốn cùng

Đời quá chật mà sao thống thiết

Chó tru lời nhật nguyệt linh lung

 

Ôi gió rắn xanh lè chủ nghĩa

Ngày lang thang đêm hú vía soi

Mồ ngun ngút ba bề bốn phía

Nghe trầm luân núi réo sông trôi !!!

 

Ôi gió rắn xanh lè khí độc

Thổi từ lâu kim cổ phơi thây

Lý với Sự tào lao thiên tặc

Ngọng hết rồi biết hỏi ai đây ?!

 

Thằng con nít ăn mày sông núi

Bạc đầu lau hạt bụi muôn xưa

Mưa cố cựu chia nhau hờn tủi

Gió vô thường sớt giọt trao đưa

 

Thằng con nít thò tay ra hái

Đóa mồ côi vẽ lại thời gian

Oan khiên đó chim kêu đầu bãi

Vút duyềnh quyên một tiếng lạnh tràn…

 

“Người đã khuất” ở đây là cha và hai người chú ruột của nhà thơ đã bị chết oan khuất, bức tử một cách thảm khốc năm 1965. Chứng kiến cảnh đau đớn tột cùng ấy, thi nhân trực nhận, thấy ra bộ mặt thật ghê tởm của chiến tranh Việt Nam, bộ mặt thật gớm ghiếc của những thứ gọi là chủ nghĩa, học thuyết và thấm thía quặn lòng, cảm thương vô hạn núi xương biển máu của cả dân tộc một thời. Không gì buồn hơn, đến tận ngày hôm nay, trên đất nước này vẫn chưa thoát khỏi được những mưu đồ chính trị ám muội, núp dưới nhiều chiêu bài xảo quyệt làm cho đất nước ngày càng tang thương, điêu đứng, càng đổ nát, tan hoang hơn nữa.  

 

Buốt cóng long đong mấy mùa đông dài lạnh lẽo trong bóng tối côi cút, buồn bã quá độ thê lương, bước đi giữa chợ đời bão loạn đầy oan nghiệt, xót xa giã từ lũy tre bờ giậu, ngõ trúc, vườn rau, bụi chuối… Thôi hết rồi, sông ơi, chảy đi nhé ! Chảy đi những chiếc lá vàng rơi rụng bên cổ tháp Chiên Đàn hoang vắng tịch liêu, chảy đi máu lệ hận thù u uẩn, chảy đi bao thảm họa hoành sinh, mịt mù u ám ở cố quận Tam Kỳ :

 

Sông ơi, em chảy bao giờ

Nước mùa sẫm lục, bến bờ về xa

Ta cầm viên sỏi phôi pha

Ném lên ngày rộng, vòng hoa tím chiều

Chiên Đàn lá rụng hoang liêu

Hồn thơ dại nhớ cánh diều đứt dây

 

Ta mang xương máu lưu đày

Làm thân đất khách, ăn mày sương thâu

Đêm cuồng những cánh buồm nâu

Ngày điên khóc hận bên cầu nước trôi

Dang tay đón nhịp luân hồi

Thấy trong ngất tạnh núi ngồi vong thân

 

Sông ơi, em chảy trong ngần

Khắc ghi những dấu mộ phần ban sơ

Người thân thiết giục sang bờ

Người xa lạ bỗng không ngờ… mình thôi !

Quán Rường miếu cũ bình vôi

Hồn tre trúc dựng trang đời Thu Đông…

 

Quán Rường nằm giữa hương đồng cỏ nội, nơi một thời đôi chân trần trụi bé bỏng thơ ngây tha hồ nhảy nhót, chạy tung tăng dọc theo mấy bờ ruộng lúa thả diều, tắm nắng ven sông, thả gót lan man ngát mộng gió nguyệt rằm. Tâm hồn thi nhân vẫn ngàn năm còn lưu giữ màu xanh cố quận, rưng rưng trong đôi mắt buồn xa vắng, lặng vờn theo gió nắng trời trăng sương vời vợi…

 

Ơi chao ! Chẳng biết nói gì. Cầm cây bút viết dòng thi ca trào… Ồ, ồ, vừa đi vừa mần thơ trên khắp dặm phù du lữ thứ vui buồn. Cuộc đời bắt đầu chơi vơi, chìm nổi theo dòng dâu bể vô thường, tuy phải chịu nhiều thử thách, gian truân, nhưng thi nhân vẫn âm thầm hàm dưỡng một nội lực vững chãi, một nội công thâm hậu. Thấu thị cái nghe và cái thấy tận căn để của âm thanh, sắc tướng, hiện tượng giới như huyễn hóa, phù vân. Nhảy tung vào trung tâm cơn lốc của nhật nguyệt thiên địa, khai phóng Tinh Âm, Huyết Âm, Huyền Âm vỡ bùng cung bậc ngân rung, vừa lấp lánh trăng sao ảo dị vừa đắm say ngây ngất tân kỳ, quyện hòa nhập diệu vào nhau một cách thuần nhiên, để  Hòa Âm Âm Âm Âm :

 

A A A

U U U

Vô tận A

Vô tận U

 

Ảo âm chôn bóng đỏ mù

Tinh âm sấp ngửa sặc sừ

Hòa âm ấm lạnh A U

 

U U U

A A A

Gió bạt tai

Âm rền máu

 

Mẹ đẻ đỏ hoe tiếng khóc

Càn khôn tìm về ngay chóc

Vũ trụ đùn ngay một bọc !

 

Âm âm âm

A A A

U U U

Câm câm câm

 

Chỉ biết tri âm là đây

Ngáp dài một cái tròn đầy

Xương tàn cốt lụi òa bay

 

A A A

U U U

Hú mù A

Hú mù U

 

Chỉ biết tri tình ấm lạnh

Hòa âm suốt kiếp chưa tạnh

Lù đù suốt kiếp chơi mạnh…

 

Bài thơ đúng là một cuộc chơi du hý thập thành công lực, bừng bừng khí thế mãnh liệt, mạnh mẽ trên cuộc lữ dặm dài. Bài thơ trên cũng làm gợi nhớ đến bài thơ A,  A A,  A A A,  A A A A A… ( bất tận, âm thanh A bất tận ) của thi sĩ Phạm Phú Hải và nhớ chữ Phạn A của họa sĩ thiền sư Nhật Bản Hakuin, họa chữ Phạn A thành một con rồng bay lồng lộng lướt tung trời. Tiếng hú tuyệt mù U U U… A A A… của Nguyễn Lương Vỵ nghe ra cũng hòa âm cùng tiếng gầm sấm động của Không Lộ thiền sư giữa lòng trạm nhiên tịch mịch :

 

Hữu thời trưc thượng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

 

( Đỉnh non có buổi leo lên thẳng

Gầm dài một tiếng lạnh hư không )

 

Tiếng gầm của thiền sư, của núi của biển, hay tiếng gầm rống của loài rồng tái sinh làm thi sĩ như một người bạn thâm thiết Nguyễn Tôn Nhan đã từng nói : “Thơ Nguyễn Lương Vỵ là tiếng gầm của con rồng chứ không phải là tiếng hót của con chim ( dù là con chim kỳ dị )…” Tiếng hú, tiếng gầm hòa với giọng núi, giọng rừng, giọng biển, giọng sông hồ khe suối cùng đồng vọng từ đỉnh cao vô thượng tuệ giác xuống ngàn khơi chập chùng sóng lượn, mịt mù u minh dậy sóng ba đào… Chàng thi sĩ buông bỏ bớt hành trang, để nhẹ nhàng đi và đi và đi phiêu nhiên, phóng đãng như là cái nghiệp mệnh bềnh bồng, không thể nào dừng chân lại được. Bước cô lữ từ muôn vạn kiếp trước đến muôn trùng hun hút ngàn sau như Lý Hạ, Lý Bạch gõ nhịp hòa âm bài Phương Đông hành lạnh rờn xương xảu máu me, nghe tiếng khóc điệu cười của nhân loại trong từng trận trận điêu linh, ngập ngụa biển dâu giữa Âm Vang Và Sắc Màu lãng đãng :

 

Ngàn năm bước thấp bước cao

Ta xin bước tiếp, bước nào nữa đây ?!

Bước xa : Viễn tượng hao gầy

Bước gần : Hiện tại vẫn đầy bão giông

Vết thương nhân loại đèo bòng

Vết bầm thế giới những vòng quay nhanh

Khóc hờ, chén rượu tàn canh

Cười khan, cạn hết bài hành phương Đông

Người em nô rỡn bụi hồng

Hát rong oan nghiệt, tạ dòng sông xanh

 

Ngàn năm sầu dựng trường thành

Ta xin cúi lạy âm thanh sắc màu

Điệp trùng thế kỷ trôi mau

Thương câu lục bát mà đau lục bình

Quê nhà : Hoa Nắng quyên sinh

Xứ người : Trăng Huyết run mình chết theo

Hàm ơn ngọn lửa thầm reo

Đêm thiêng rạch một tiếng kêu sáng lòng

Vẫn còn những bước thương mong

Còn vang ngấn tích ở trong tim người…

 

Trong tim hồn thi nhân vẫn luôn luôn đồng vọng những âm dư, âm vang, âm thanh, âm hưởng, âm ba, âm động, âm trầm, âm tĩnh, âm diệu, âm huyền miên man bất tận bản Hòa Âm Câm Nín Máu. Tiếng Âm hình như vang dội, rền ngân một cõi phiêu bồng trong thơ Nguyễn Lương Vỵ đâu từ tiền kiếp xa xôi vọng về, để Huyết Âm bật lên một câu hỏi quyết liệt và đồng thời cũng là lời đáp thâm trầm :

 

Khởi kỳ thủy là Âm ?!

Âm huyết lá

Huyết thi ươm nắng lạ

Đá khóc sắc chiều tà viễn xứ

Bướm rung chuông

Rung hết vết thương sâu…

 

… Khởi kỳ thủy là Âm ?!

Chôn hoàng hôn trong huyết lá

Chôn tịch liêu trong huyết thi

Rừng âm mưa vô sắc

Biển âm mưa vô sắc

Huyết âm em trong giọt nước sơ huyền…

 

Giọt nước sơ huyền là những tiếng rơi từ Thi tưởng xứ mà nhà thơ thường lắng nghe trong lúc tàn khuya trăng khuyết, hay giữa buổi ngọ thiên tuyệt tích một mình. Thinh lặng sắt son, hồn thơ chất chứa đầy niềm trắc ẩn về kiếp nhân sinh qua từng hơi thở lâm ly, bi ai mà dạt dào hào khí, vi vút ngút ngàn như tiếng hát trữ tình long lanh lấp lánh bản Thanh Ca :

 

Cảm ơn mộng mị cảm ơn đời thường cho ta giàu tưởng tượng cho ta giàu thơ ca từ buổi đầu xanh chưa ráo máu bây giờ vẫn còn mang theo muôn triệu mặt trời lung linh giữa trần gian tràn sắc nắng bay qua ngực rộng bay qua mãi mãi bay qua đến bao giờ chẳng biết nhưng ta biết thơ ca là chiếc lá diệu kỳ là chiếc hôn diệu vợi của nòi tình muôn triệu năm vậy đó em ơi ta chỉ biết mần thơ để thở phập phồng hai lá phổi một buồng tim rung động mấp máy hai con mắt xa xăm nhớ trời cha thương đất mẹ vô cùng vô tận vô biên hai bàn tay bấu chặt tiếng cười tiếng khóc núi sông bà con làng xóm láng giềng ruột thịt không riêng tây gì nữa ta mở cửa đón vào trao bài thơ đạm bạc tẩm muối mặn gừng cay ngày hôm xưa mần sao ngày hôm nay mần vậy ân tình trọn vẹn vậy đó em ơi ta chỉ biết mần thơ như bến bờ tụ lại như tiếng đờn cò thiệt chẳng biết mần sao nhưng ta biết thơ ca là cái liếc ngấm ngầm là cái nghe thâm hậu thấu trời thấu đất thấu tử cung cuộc sống cơm áo gạo tiền điên đảo em ơi đổ mồ hôi sôi nước mắt không phải dễ đâu nha thơ ca sát sạt đời thường cũng soi gương rửa mặt ì xèo sống hết ga mần hết cỡ mới có thơ để thở để thấy rõ mặt nhau mai sau vạn đại gì gì cũng phải vậy đó em ơi ta thèm đi suốt xứ thèm phố phường rừng núi ruộng đồng thèm ao suối sông hồ biển nhỏ biển to thèm niềm vui thèm nỗi buồn thèm em thèm tất cả xương da mộng mị đời thường cho thơ ca càng bổ khỏe phương phi vì nhau mà sống vì nhau mà chết nên chẳng dễ gì ta chép hết khúc Thanh Ca…

 

Thanh Ca là bài thơ viết một mạch như nước chảy mây trôi, như bản hòa âm tâm đắc của thực và mộng, chung và riêng, trời với đất, cất lên thành nhạc thành thơ, là tiếng hát yêu đời tha thiết, yêu sự sống nhiệm mầu trong từng hơi thở, yêu nhạc, yêu thơ và mần thơ ráo riết, chuyên cần, siêng năng, tận tụy….Nhưng thơ là gì mà mê mẩn mần hoài như rứa ? Thưa rằng chẳng biết chi mô. Chuyện thơ với thẩn trầm trồ lâm ly... Thôi thì, hãy nghe chính Nguyễn Lương Vỵ phát biểu về thơ : “Thơ ư ? Gắn liền với mệnh đời, mệnh người và mệnh mình. Tôi tự nhận mình là người Tu Thơ. Cẩn trọng Nghe, Nhìn, Suy Gẫm và Viết miệt mài cho đến hơi thở cuối cùng.

Tu Thơ : Tu Chữ, Tu Tâm, Tu Ý. Chữ là sinh linh vũ trụ, chói rạng âm vang sắc màu. Tâm viên ý mã. Than ôi !!! Tu Thơ là vậy đó, để biết thương mình hơn, thương người hơn, thương đời hơn, thương vũ trụ hơn.

Tu Thơ : Không ráng sức, không cưỡng cầu. Tĩnh mà Động. Động mà Tĩnh. Cõi vô ngôn là cõi huyết lệ trùng trùng duyên khởi. Biết nắm mới biết buông.”

 

Nguồn suối tâm linh của nhân loại hầu như dần dà khô khan, cạn kiệt hết rồi. Giữa thời buổi suy đồi, nhiễu nhương này, người ta lo chạy đi tu Phật, tu Chúa, tu Đạo, tu Thiền, tu Tiên lu bù đủ thứ, chứ tuyệt nhiên không có bất cứ một kẻ nào biết đến Tu Thơ là gì. Thì ra chàng thi sĩ khác thường vừa mới phát minh, sáng lập một pháp môn nghệ thuật hoàn toàn mới mẻ. Nghe tưởng như đùa nhưng thực ra không phải thế, chàng đã suy gẫm chín chắn hằng suốt bao đêm trường và rất cẩn trọng trong việc tuyên bố mật pháp Tu Thơ của mình. Dễ có mấy ai trong thời đại cơ khí này xem Thơ như Đạo để mà tự hành trì, tự nỗ lực Tu Thơ ? Chữ Tu ở đây, hẳn nhiên không phải là sửa chữa hay chỉnh đốn gì cả mà chính là công phu hàm dưỡng, là cách dụng công nghiêm cẩn, chú tâm ấp ủ lâu ngày, lấy Thơ làm đề tài quán chiếu, tư duy, hay nói cách khác, Thơ chính là công án của chàng thi sĩ vậy. Đối với chàng, công việc viết lách, sáng tác văn nghệ như một cái nghiệp phải đa mang, như có lần chàng tâm sự với Nguyễn Tôn Nhan, một người bạn thâm tình chí cốt : “Mần thơ cũng là một nghiệp chướng ! Thơ nó bắt mình mần hoài, nó ở trong tủy, trong xương, trong thần hồn nó réo. Mần hoài mà nó chẳng chịu thôi ( mình mần nó, nó mần mình ) Mần hoài đâm ra ghiền, đâm ra nghiện. Ớn lạnh nhưng thống khoái, sướng hơn bất cứ cái sướng nào trên đời.” Ơi chao ! Là sướng hay sung ? Trùng ngôn điệp ngữ đến cùng tận luôn. Thơ say đắm đuối cội nguồn. Đời say chuếnh choáng cạn muôn chén sầu. Ừ thì chẳng có chi đâu. Chửi thề một tiếng cho màu huyết tan. Hỡi cô liêu còn mang mang. Sở dĩ nhiên hiện giữa hoàng hôn nghiêng. Nghiêng vai trút hết não phiền. Bóng chiều phiêu dật bên hiên trữ tình. Ùn lên sương khói hư linh. Phiêu phiêu lãng lãng một hình bóng trôi ... Trôi về đâu mà thơ chảy tuôn buốt lạnh ngàn trăng, hằng cửu thơ nở một nụ đang là. Thi ca, thi ca, thi ca là gì, thi sĩ là chi mà thi hào Hoelderlin nói : “Con người ngụ cư trên mặt đất như một thi nhân.” Còn Nguyễn Lương Vỵ thì ỡm ờ, tinh nghịch nhưng cũng rất thấu đáo, thấu thị, thấu tình đạt lý :

 

Thơ ?

Giản dị

Như tiếng em rên :

Sướng muốn chết!!!

Đau muốn chết !!!

Như vậy

Chết

Chưa hết chuyện !!!

 

“Chưa hết chuyện…” của thi nhân là chưa hết chuyện gì ? Còn cái chuyện chi khẩn thiết, tuyệt đối quan trọng, trầm trọng nữa chăng mà chưa hết, chưa xong ? :

 

Chưa hết chuyện huyền hồ huyễn mộng

Lời chưa bưa ngàn hống chưa tan

Con âm chưa dứt cung đàn

Tìm nhau con chữ bẽ bàng chưa xong !!!

 

Chưa em ạ ! Nỗi lòng chưa hết

Chút trời xanh soi vết thương tâm

Con âm kỳ tuyệt huyết âm

Tưới lên con chữ trầm ngâm kiếp người…

 

Đến cái chết vẫn chưa chấm dứt chuyện đời. Quả thật như vậy, theo diệu lý Phật pháp, bản chất của con người vốn là bất sinh bất diệt, vô thủy vô chung, vốn là Chân Như tự tánh Không thanh tịnh. Chính Đức Phật đã khám phá ra chân lý vi diệu đó và biết bao bậc cao thủ cự phách trong nhân loại như Duy Ma Cật, Long Thọ, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Huyền Giác, Trang Tử, Lão Tử, Milarepa, Krishnamurti, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ… cũng đã thấy như thế. Sở dĩ chúng ta còn thấy có sinh có diệt, có sống có chết, bởi do tâm thức còn bị mây mù vô minh che lấp, phủ kín đó thôi. Chỉ khi nào mình dụng công, quét sạch hết bụi phiền não, vô minh kia đi thì tự nhiên tuệ giác sáng rực, bừng chiếu, liền thấy hiển lộ ra cả ba nghìn thế giới, cả mười phương cõi Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Đấy là cái thấy Tánh Không, cái thấy Hoa Nghiêm như Bùi Giáng đã thấy :

 

Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm

Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng

 

Con mắt Hoa Nghiêm thấy vạn pháp, cả sơn hà đại địa trùng trùng duyên khởi, duyên sinh từ một bản lai diện mục không sinh, không diệt, viên dung cùng tận thật tuyệt vời. Nơi đây, ly ngôn, ly tướng, viễn ly cả sự viễn ly… Thôi thì chẳng biết nói chi. Cười vang một tiếng tức thì thấy ra… Ồ ồ, thấy ra, nhìn ra, hiểu ra, ngộ ra cái gì không rõ nữa, nhưng khi biết xem sinh tử như hoa đốm giữa hư không thì cũng rỗng rang, vô ngại mà tự tại nhàn du, luân vũ khúc thường hằng rồi. Mỉm cười bắt tay với cái chết, ôm ấp vi vu với tử thần, bắt tay với vô tận, như Nguyễn Lương Vỵ hoan hỷ bắt tay Bất Tuyệt :

 

Chìa ta ra bắt tay cái chết

Cái tuyệt vời giống hệt cái em

Cái vạn thuở nở ra vạn kiếp

Cái hình hài nhiếp dẫn sương bay

 

Ồ sương bay Đông Tây Nam Bắc

Ồ mồ thu réo rắt gì đâu !!!

Gì đâu chép câu thơ trong vắt

Lệ trong veo vô tận sơ đầu

 

Chìa tay ra bắt tay bất tuyệt

Phía đầu non xuất huyết biển xanh

Huyết vũ trụ bụi mù thao thiết

Tủy càn khôn chôn giọt nắng tan

 

Ô nắng tan trong một sát na

Ô sát na la thảm thiết người

Câu thơ nóng một búng huyết tươi

Câu thơ lạnh một trời tủy sống !!!

 

Chìa tay ra bắt tay gò đống

Nhân gian hệ lụy nuốt dài dài

Nuốt kiếp kiếp lòi ra viễn mộng

Té ra ta là sương nhớ ai…

 

Chìa tay ra bắt tay vô tận

Tuyết băng kia ôm hận trắng ngời

Trắng rợn rợn trắng rờn rờn trắng

Nhắn một lời Vắng Lặng rồi thôi !!!

 

Vắng Lặng là gì ? Im lặng có nghĩa là chi ? Vô ngôn bất khả tư nghì ngắm trăng. Rỡn mây đùa gió vĩnh hằng. Đá cười sỏi hát rợn băng tuyết rờn. Tận miền tuyệt đích hàm ơn. Nghe ra mưa nắng sương vờn qua sông… Hoan ca hòa trong niềm cô tịch, lặng lẽ trở về cõi ban sơ Diệu Tâm trầm tịnh, trở về với cái Như Như :

 

…Ta thấy ta quá cỡ sặc sừ

Câm trời nín đất nứ nừ nư

Ngọng nghịu mà câm như cái đó

Có và Không rền một tiếng Như…

 

Tất cả ba tạng kinh điển, tất cả mọi triết lý Đông Tây kim cổ đều nằm gọn trong một chữ Như này mà thôi. Như Lai, Như Tính, Như Như, Như Vầy, Như Thế, Như Thị, Như Nhiên tuyệt diệu vô vàn. Bản đại tấu khúc Hòa Âm Câm Nín Máu của Nguyễn Lương Vỵ thấm cảm vô biên, huyền hòa vô lượng những cái Không và cái Có giữa chập chùng cõi tạm phù vân. Rồi hoát nhiên linh thức thi nhân trực nhận gốc Đạo và nguồn Thơ vốn là một, viên dung rốt ráo, cho nên thong dong, thư thả bước ra vào :

 

Nhìn trong thơ thấy đạo

Nhìn trong đạo thấy thơ

Nhìn trong thơ thấy gạo

Nhìn trong gạo thấy mình

Có khộng thiệt rốt ráo…

 

Đó là cái thấy trùng trùng duyên khởi giữa cuộc lữ quy hồi vĩnh cửu, là những bước chân bất nhị phiêu nhiên trên cung bậc bất tuyệt của Nhạc và Thơ. Thơ như nghiệp mệnh lạ lùng. Nghe nhìn suy gẫm riêng chung trong ngoài. Thơ về nguyên chất trần ai. Viết lên cẩn trọng miệt mài ngân rung… Rung ngân giữa thiên thanh vĩnh thúy những tiếng lòng sơ thủy ngát xuân phong.

 

Trong lời bạt tập thơ Huyết Âm, thi sĩ Lý Đợi có trích dẫn lời Nguyễn Lương Vỵ lý giải, bày tỏ về thơ : “Hành trình của văn học nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng là sự trở về Tịch Liêu, Tịch Lặng, Tịch Mịch như Nguyên Thủy, Nguyên Sơ của nó, bằng bàn chân, bàn tay có gắn con mắt, lỗ tai trí tuệ bão giông. Vì vậy cứ tiếp tục mần thơ. Mần một cái việc Đại Tào Lao, hoan hỷ điên theo kiểu rung động của mình. Thế mà vui !” Như vậy chuỗi Âm trong suốt đời thơ Nguyễn Lương Vỵ, phải chăng là nỗ lực chuyển Âm, đẩy Âm cho đến chỗ tận cùng, chỗ Tịch Liêu Vắng Lặng, Tịch Mịch như Nguyên Thùy, Nguyên Sơ của tính thể ban đầu ? :

 

Câu thơ nay kiên khổ

Lì đòn chờ âm rung

Chờ nát tan tri ngộ

Chờ ngất gió loạn bùng

Một cú nhảy sau cùng…

 

“Một cú nhảy sau cùng” là một cú nhảy trọng đại, rốt ráo để nhảy tung vào cõi  “Hoan Hỷ Địa, Hoan Hỷ Điên” như ước nguyện thiết tha của người thi sĩ trọn đời miên mật “Tu Thơ” :

 

Tu thơ là tu chữ

Là tu e-mờ-em

Đánh vần cho thiệt bự

Hiện cái em cho xem

Nhem thèm hết vũ trụ…

 

Tu thơ là tu hú

Hú làm sao cho lâu

Cho huyết tan máu tụ

Nở một nụ nhiệm mầu

Bồng em tu cho mau…

 

Bồng em tu suốt kiếp

Kiếp sau thề tu luôn

Tu một lèo chưa kịp

Thơ rụng đầy một guồng

Biết nắm mới biết buông…

 

Giọng thơ cà rỡn bông đùa nhưng nghiêm túc, nghiêm chỉnh. Em ở đây là Thơ, là cái Đẹp vĩnh cửu mà thi sĩ hết lòng tín mộ, tôn thờ trên chốn trần gian vừa điêu linh mà cũng vừa thơ mộng. “Biết nắm mới biết buông” là câu thơ sấm rền, huyết lệ của một người đã từng nếm trải biết bao khổ lụy, bi kịch kinh hoàng, khủng khiếp của cuộc đời. Buông là buông xả, buông bỏ, buông xuống hết sạch sành sanh mọi cái gọi là sự nghiệp, tài sản, bằng cấp, lợi danh… của suốt một cuộc bình sinh tận tụy, hì hục tạo dựng trên cõi phù vân nhân thế này. Biết buông bỏ được vì đã biết nắm cầm chắc nịch trong hai bàn tay rớm máu, thấm đẫm đủ đầy kinh nghiệm lịch lãm giang hồ, rờn rợn giá băng quằn quại của kiếp con người. Bao nhiêu hương sắc trần gian, âm vang, hình tướng, bao nhiêu học thuyết, triết lý, chủ nghĩa, dục vọng, sân si, hỷ, nộ, ái, ố… đều tan biến vào hư không, chỉ còn lại lấp lánh ánh tinh sương, long lanh rực ngời gió trăng, tặng trao hào phóng, trên đường về tịch mịch vô ngôn cùng Hòa Âm Bụi Đỏ :

 

…Vịn hạt bụi chùi lau mây chín cõi

Nhạc mười phương lửa ngún gió hòa âm

Âm bụi đỏ chiều xa ta đứng ngó

Dáng em nằm, lông ướt nắng mênh mông

 

Hú một tiếng chiều ơi ! Rơi đáy mộ

Bụi còn đau ? Sau trước tỏ nguồn cơn

Nhạc vẫn rụng, ngàn sông kia đã ló

Chút mầm kia, ta cúi lạy hàm ơn

 

Ơi bụi đỏ, có ngàn trùng lưu dấu

Có em đau nhật nguyệt với sơ huyền

Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu

Chiều thì xa, ta vụt mất cơ duyên!!!...

 

Trong một bức thư, nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan gởi Nguyễn Lương Vỵ, tháng 6 năm 2007 ( in lại trong tập thơ Hòa Âm Âm Âm Âm… ) có đoạn viết : ““Thi ca sẽ giúp “sau trước tỏ nguồn cơn.” Đến bây giờ, ở trong nước và ngoài nước ( thực ra tôi đâu có khái niệm gì về trong hay ngoài ) tôi chỉ nhờ thơ Vỵ giúp tôi tin ở những cuộc “viễn mộng” xa xôi nọ. Tôi phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi, đọc suốt đời càng thích. Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ có “chữ” không thôi, nó chính là Tính Linh của chúng ta, dù chỉ là loại tính linh đầy những máu :

 

Với tuyệt đích Hòa Âm Câm Nín Máu

 

Bài Hòa Âm Câm Nín Máu ấy mới chính là tiếng gầm rung rinh cát bụi trần gian. Phải không Nguyễn Lương Vỵ ?” Tâm tình của tri kỷ, tri âm rúng động đất trời, Nguyễn Lương Vỵ đã đáp lại bằng một bài thơ với tất cả tâm huyết của mình, nhân ngày giỗ giáp năm của Nguyễn Tôn Nhan ( mất ngày 31.01.2011 ) Cuối Năm Nhớ Nguyễn Tôn Nhan :

 

Bồng bềnh bồng bềnh như u mộng ảnh

Đêm cuối năm sóng sánh một trời thơ

Chữ biệt tích ý biệt tăm quá lạnh

Nhớ bạn hiền ngồi độc ẩm bơ vơ

 

Tay gõ phím vu vơ tìm tiếng vọng

Tiếng cười năm xưa giọng nói vang trầm

Hất mái tóc nhắc Lão Đam lồng lộng

Đạo khả Đạo… phiêu bồng cao hứng ngâm

 

Thi khả Thi… cười khì em quá mượt

Quá huyền vi say khướt nụ xuân thì

Giọt khuya thấm rầm rì đầy ơn phước

Thơ cũng say mèm vì em đã đi

 

Thánh Ca rất xanh dưới trời Tượng Số

Lá tương tư tự vẫn dưới chân đồi

Thi sĩ để tang cùng mây vạn cổ

Rồi trầm mình trong huyệt mộ mồ côi

 

Tay gõ phím tìm nhau nơi đất lạ

Mà trời rất quen Lục Bát Ba Câu

Câu lục cuối nhẹ thênh mà buốt quá

Khều cái mênh mông sấm động gió đau

 

Tiếng chuông trên đồi xưa nở tím ngát

Bóng mây điên kia trổ nhạc khóc òa

Ta uống thêm một ly nghe âm ngất

Nghe đá rền đỏ mắt hát bi ca

 

Hãy dựng sẵn ngôi nhà mây Ngu Cốc

Chờ ta về cùng đọc thơ huyền âm

Lạnh lạnh lạnh trầm trầm trầm tán dóc

Huyền chi hựu huyền nhậu với sương câm…

 

Tình bạn của hai nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan – Nguyễn Lương Vỵ rất chân tình, trước sau như nhất, thật hy hữu, hiếm hoi trong thời buổi lừa đảo, xảo quyệt này. Chính niềm tin vào thi ca, vào cái Đẹp vĩnh hằng của thi ca đã tạo được sự rung động, đồng cảm sâu xa, quá đỗi chí tình, chí cốt, tâm đầu ý hợp đến như vậy.

 

Thấy gì chăng, cõi thơ Nguyễn Lương Vỵ ? Phải chăng ÂmChữ là những chặng đường khám phá lâu dài, kiên nhẫn, không mệt mỏi ? Với vốn tri thức Đông phương thâm trầm, sâu thẳm, thường ẩn mình trong tịch cốc cô liêu, để nghe lại cái Nghe, thấy lại cái Thấy ban sơ, nên chi mỗi tập thơ ra đời là một dấu ấn độc đáo, chứa đầy sự khai phá mới lạ của một người có dụng công, nỗ lực Tu Thơ. Thơ của chàng mang chất cổ điển nhưng cũng rất hiện đại, giàu hình ảnh, gợi hình gợi cảm, nhiều biểu tượng, siêu thực, tượng trưng và ẩn dụ, hoán dụ tài tình. Hồn thơ lênh láng, trang trải, bay lên hòa âm thâm thúy cùng với những bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử… Từ thuở nhỏ, thi nhân đã tự nhận Nguyễn Trãi là bậc thầy trong đời thơ của mình, hết lòng kính ngưỡng bậc đại thi hào dân tộc này. Đấy là một con người uy đức, từng viết bản hùng ca Bình Ngô đại cáo và đặc biệt hơn nữa là một tâm hồn trác việt, uyên thâm, nhập diệu lý Thiền tông. Buông bỏ công hầu khanh tướng, lui về quy ẩn nơi núi rừng Côn Sơn, Hải Dương, sống mộc mạc, đơn sơ giản dị rất bình thường với đạo và thơ. Thế rồi nghiệp duyên tiền kiếp đâu ập đến thành vụ án oan trái Lệ Chi Viên đầy ngộ nhận thảm sầu, để ngàn năm sau vẫn còn vô lường thương tiếc. Nguyễn Trãi tiên sinh, một bậc thầy đúng nghĩa chân chính mà thi nhân vô ngần kính yêu, cảm mộ qua bài thơ dài Gởi Quốc Âm :

 

…V

 

Trọn đời thương nhớ Ức Trai

Sáu trăm ba mươi năm ngoài

Chí Linh nhương sao nhấp nháy

Côn Sơn vung bút mãi mai

Oan nghiệt tuyệt không nhếch mép

Công danh đếch có rùn vai

Loáng gươm đưa đầu lìa cổ

Chẳng cần chi ai khóc ai…

 

VI

 

Khóc ai nào biết khóc ai

Lệ Chi Viên oán ngút dài

Rưng rức ngàn sương cay mắt

Sững sờ trận gió ù tai

Sử lịch chìm sâu ngất ngất

Thời gian trôi giạt phai phai

Ém trong ngực một tiếng thét

Khóc ai nào biết khóc ai ?!...

 

Một câu hỏi sinh tử dội ầm sấm sét. Lặng hồn hoài niệm mang mang, đối với Hàn Mặc Tử, một thi hào vĩ đại của thi ca Việt Nam, Nguyễn Lương Vỵ dành riêng một niềm quý trọng, ngưỡng mộ vô cùng, chàng viết những dòng thơ thấm thiết, cảm ứng trào máu lệ, thể hiện qua bài Thượng Thanh Khí :

 

Đau thương trong suốt Thượng Thanh Khí

Ta chết trong veo giữa huyệt trời

Hồn thơm, no cứng Xuân Như Ý

Phượng Trì vút lên mùa trăng chơi

 

Vút lên câu huyết thi năm ấy

Ta chết hồ nghi trong giá băng

Trong sương lang bạt vô tình thấy

Thơ liếm môi người không nói năng

 

Vút lên trí tưởng thơm nhan sắc

Ta chết hồn nhiên dưới búp non

Nguyệt nõn một chùm lông réo rắt

Bay theo thương tưởng một linh hồn

 

“Thơ ta bay suốt một đời chưa thấu”

Ngàn trước ngàn sau hụt đáy hoài

Tứ cũng Hư như Huyền ảo não

Thi huyết khô rồi nhưng chẳng nguôi…

 

Bài thơ trên đã nói lên niềm thương tưởng, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu với tâm sự của Hàn Mặc Tử : “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.” Hàn Mặc Tử dường như là nói giùm cho Nguyễn Lương Vỵ như vậy đó, cũng như rất sung sướng được nghe Phạm Công Thiện giải thích tận cùng : “Chúng ta phải nhập tâm, phải để năm tiếng của Hàn Mặc Tử in dấu sâu thẳm vào tận lòng mình : “Đến Gần Đứt Sự Sống.” Khi nào “đến gần đứt sự sống” rồi mới biết Thơ là gì, mới biết làm thơ, mới biết đọc thơ. Khi mình chưa “đến gần đứt sự sống” thì không được quyền nói bất cứ điều gì về Thơ, về Thi Ca, về Thi Nhân, về Điên Loạn, về Tình Yêu, về Hồn, về Nguyễn Du, về Hàn Mặc Tử hay về bất cứ một “con sông này đã đi qua” trong đời mình.”* Thích thú làm sao, hỡi trời thơ bay ngây ngất như chim phụng hoàng bay vút mộng, phong quang lồng lộng tận trời cao.

 

Chao ơi ! Tiếng thơ dậy lừng, hưng phấn từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng vang rền  rúng động khôn dò, dập dồn, rộn rã ngàn mây gió rung ngân. Nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ thượng thừa, một cuồng sĩ kỳ dị mà thi ca và tư tưởng đã thấm sâu vào xương tủy bao nhiêu tơ tưởng vô vi, ý niệm tiêu dao, hào sảng un đúc thành nghi ngút lửa tim hồn. Đốt lên ngọn lửa Thơ Vô Tận Vui huy hoàng bát ngát, mở ra Ngày Tháng Ngao Du phóng khoáng tang bồng, khiến cho Nguyễn Lương Vỵ luôn luôn gìn giữ ánh lửa thiêng đó, không bao giờ để ngọn lửa thi ca trong lòng tàn lụn, làm nhụt chí nam nhi. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, dưới nhãn quan của kẻ đăng trình, thích khám phá phiêu lưu, mạo hiểm vào những phương trời  sáng tạo, ưa nhập cuộc tưng bừng luân vũ rạt rào, nhào lộn giữa tồn sinh, thử xem chữ tài chữ mệnh có lênh đênh, bềnh bồng trôi lăn lông lốc đến đâu. Sẵn sàng dang tay chấp nhận tất cả mọi nghịch cảnh như Thúy Kiều chấp nhận mười lăm năm luân lạc nổi trôi. Trôi và chảy, chảy và trôi cho đã cái đời lêu lổng lang thang, để rồi cùng rung lên cung bậc Hòa Âm Lục Bát Nguyễn Du - Bùi Giáng :

 

Một xe trong cõi hồng trần

Như bay ( Hãy một đôi lần thử xem ! )

Bay đi bất kể ngày đêm

Vù mu thiên cổ đã mềm môi chưa ?

Sá gì Tài Mệnh cù cưa

Trăm năm trong cõi dây dưa em Kiều

Hỏi rằng : Em đẹp bao nhiêu ?

Bao nhiêu thì bấy nhiêu điều Đạm Tiên

Liên tồn hồn hậu tuy nhiên

Đoạn trường thế ấy cuồng điên thế nào ?

 

Một xe trong cõi tầm phào

Như lao xuống vực như trào lên không

Hỏi rằng : Em có mênh mông

Mà sao bát ngát từ trong ra ngoài ?

Tất nhiên cái đó u hoài

Thành ra viễn mộng có đòi được đâu

Miên trường giấc ngủ dài lâu

( Làm sao biết được canh thâu em về ! )

Em Kiều em Thúy em Huê

Em tồn sinh mở bốn bề dư vang…

 

Cái giọng thơ nồng nàn pha chút rỡn đùa, tiếu lâm nhưng nghe đau thấu ruột gan của kẻ hậu sinh đồng cảm với bậc tiền bối Nguyễn Du và đàn anh Bùi Giáng. Thi hào Nguyễn Du qua Truyện Kiều đã đưa ngôn ngữ Việt Nam đến chỗ vô cùng diệu dụng của hiển ngữ và mật ngữ, vừa trong veo, thanh khiết vừa kỳ ảo, siêu việt, xuyên suốt muôn tình qua cung bậc sáu tám tuyệt hảo vô song, mở ra một con đường mây trắng ngoạn mục, thung dung cho thi nhân cất bước. Thơ lục bát Bùi Giáng xuất thần nhập thánh trong Mưa Nguồn, Sa Mạc Trường Ca, Lá Hoa Cồn, Rong Rêu, Màu Hoa Trên Ngàn… đã đưa dòng thơ lục bát lên đến cõi mênh mông, gợi cảm hứng cho Nguyễn Lương Vỵ cúi hồn Kính Thưa Sáu Tám :

 

… 7

 

Kính thưa sáu tám âm rung

So dây nhắc lá chúc mừng xưa sau

Lá reo xanh ngút sắc màu

Dây ngân xanh hút ngàn thâu trở mình

Gió đưa cuống rốn rung rinh

Cuống nhau chưa nỡ dứt tình hoài thai

Vại sành chôn dưới gốc mai

Xa quê nuối mộng sát vai mớ thầm

Rốn rung rinh nở huyền âm

Ta nâng ta hứng từ tâm ứa tràn…

 

8

 

Kính thưa sáu tám tro than

Ngún hồng tâm sự cháy khan ấm lòng

Ầu ơ mạ trổ đòng đòng

Ví dầu em đẻ bềnh bồng mây bay

Mây bay em nào có hay

Tái sanh ta sẽ là mây nhớ người

Nhớ em trong vắt đáy trời

Mây bay đi mây bay rồi mây bay

Đùa vui cho thỏa tháng ngày

Cho khuây đời chật cho đầy âm rung…

 

9

 

Kính thưa sáu tám tuyệt cùng

Ru ta từ thuở mịt mùng đến nay

Cuối đời bạc tóc trắng tay

Chỉ còn thơ dại nên hay nói xàm

Dám đâu hiện đại chẳng ham

Huyết xanh thiên cổ sương lam quê nhà

Trái cam trái quít trái cà

Trái tình trái mộng ruột rà bà con

Và em múi mít quá ngon

Lủm vô một phát vẫn còn ngẩn ngơ…

 

Thơ và nhạc hoài vang ngân trên gót lữ phong trần, chàng thi sĩ chỉ còn biết tiếp tục sống và sống quyết liệt, sống hết mình hết dạ với cõi người ta, với anh em bằng hữu và nhất là bạn bè văn nghệ tứ xứ mười phương. Đối với chàng, sống trên cõi trần gian này, bạn bè là trên hết, ưu tiên trước hết, dù còn sống hay đã chết, dù thành đạt hay hàn vi, chàng vẫn trân trọng đối xử với tất cả tấm lòng nhiệt tình, sòng phẳng, hăng say. Về cái khoản bạn bầu thân sơ này, có lẽ chàng là người có bầu bạn đông đảo nhất. Gần gũi, mật thiết như ruột rà, có những mối giao tình sâu đậm, sâu xa là nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, một kẻ tài hoa, đức hạnh, thanh lương, được chàng tặng thơ khá nhiều, như bài Khúc Cầm Dương Trên Đường Về :

 

… Này khúc cầm dương trên đường về

Mười lăm năm ta vẫn lóng nghe

Vẫn mở ngực chiều ngực khuya ngóng đợi

Câu thơ tuyệt bi âm đâu hề chi

 

Đâu hề chi tiếng vọng lá khô

Bi âm kia là âm huyền hồ

Cao hứng thì nhắn trăng xưa hạc cũ

Còn không thì cụng trán với hư vô

 

Hề chi tiếng hú của muôn chiều

Bi âm kia là âm lá reo

Là nắng của ngàn thâu là yếm thắm

Là các em đang hát ngát đang gieo

 

Muôn thu ngơ ngác cũng vậy thôi

Ngồi lau năm tháng nhắn xa xôi

Lời cổ thạch trăng huyền âm gõ nhịp

Người cười im ta khóc nín sóng đôi…

 

Đó là 4 khổ cuối của bài thơ Khúc Cầm Dương Trên Đường Về, Nguyễn Lương Vỵ viết nhân kỷ niệm 15 năm, ngày giỗ thi sĩ Joseph Huỳnh Văn. Mối giao tình của nhị vị thi sĩ này cũng khá sâu nặng, như đôi bạn vong niên. Năm 1973, Nguyễn Lương Vỵ gởi bài thơ Âm Nhạc đến tập san Văn Chương và đã được Joseph Huỳnh Văn chọn đăng ngay số báo tiếp sau. Cơ duyên thiện cảm bắt đầu từ đó, càng ngày càng bền bỉ tri âm cho đến năm 1995, thi sĩ bất ngờ lên đường, qua chơi bên miền không có đâu giữa thiên thu vời vợi...

 

Trời thơ Nguyễn Lương Vỵ rung lên bản Hòa Âm Âm Âm Âm… thâm cảm với những tâm hồn đồng điệu, dù còn sống hay đã lên xe tang chạy về thiên cổ, thi nhân vẫn một tấm lòng chia sẻ ruột rà, như nhà thơ Võ Chân Cửu, một bạn hiền cố cựu từ lúc còn trọ học ở phố biển Quy Nhơn thuở thiếu thời. Cuối năm 2012, Võ Chân Cửu làm một chuyến du lịch đến Hoa Kỳ. Suốt hai tháng rong chơi đến ngày bạn hiền quy cố hương, Nguyễn Lương Vỵ không quên gởi gắm niềm thương cảm qua bài thơ Một Mình :

 

… Một chớp nháy một niềm trời

Hạt bụi bay lang thang chơi

Vết hằn xoáy theo trốt gió

Miềm thương tít tắp trùng khơi

Rạch một âm sâu nhớ bạn

Gõ vài phách lạnh đau đời

Năm với tháng chìm trong ngực

Mở lời thưa một tiếng thôi…

 

Một lời thôi cũng đủ, một tiếng thôi cũng vừa, phải không hỡi những văn nghệ sĩ tri tâm, tri tình ? Tình huynh đệ, nghĩa bạn bè sâu nặng, gắn bó với thi ca qua bao nhiêu cuộc dâu bể vô thường vẫn không hề suy giảm mà càng thêm thấm thía chứa chan, quả thật là quý giá biết bao nhiêu. Nhiều khi rảnh rỗi, ngồi thưởng thức những vần thơ Nguyễn Lương Vỵ viết về những thi nhân đã khuất như Huy Cận, Hồ Dzếnh, Hữu Loan, Quang Dũng, Phạm Hầu, Phạm Phú Hải, A Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên… thì có lẽ, ai trong chúng ta cũng không tránh khỏi xúc động bồi hồi. Ngay cả khi làm thơ gởi tặng những thi sĩ còn hiện tiền tại thế, Nguyễn Lương Vỵ đều dành trọn vẹn sự trân trọng với người thơ, với Thơ bằng tất cả niềm cảm ứng có được của mình. Đó là điều hy hữu, đáng trân trọng trong phong cách sống, lối cư xử ở đời như một nhà thơ đích thực Đông phương.

 

Về thơ tình, hình như thi nhân viết rất ít, nhưng bài nào ngôn ngữ cũng lung linh mỹ lệ mị kỳ, phảng phất nét cổ điển nhưng tứ thơ mới lạ, sâu lắng, lâng lâng thần hồn như bài Kỷ Niệm, viết năm 1970, ghi lại mối tình đầu của thi sĩ :

 

Người con gái mang tên Hoa Vàng

Cho hồn ta như mây lang thang

Bay thấp xuống bên ngoài cửa sổ

Mắt phố nâu dương cầm vang vang

 

Vang ý biếc tờ thư sương khói

Gởi giùm ta vài hạt nắng gầy

Màu thương cảm trên đường chẳng nói

Đứng một mình câm lặng khoanh tay

 

Người con gái che nghiêng chiếc nón

Cho hồn ta nghiêng hết biển dâu

Thở rất gấp giữa chiều thu muộn

Lá hiên ngoài đang bay đi đâu ?!

 

Ơi môi người tươi quá sắc hương

Ơi Hoàng Hoa lạ lẫm trên đường

Mắt choáng ngợp nụ cười răng khểnh

Dạ khúc xanh trong những giọt sương…

 

Hương sắc Hoàng Hoa tỏa ngát, một lần là vĩnh viễn thiên thu, dù có ra đi qua tận đất khách trời xa Hoa Kỳ, thi sĩ vẫn còn ám ảnh mối tình đầu tiên trong sáng ấy, nên đến đâu dưới gầm trời nào cũng mang theo trong hồn sâu thầm kín. Tuy nhiên vẫn còn lãng mạn, rung động trước những nàng thơ khác, những hồng nhan thoáng gặp gỡ bên đời, như bài Đôi Mắt Vĩ Cầm Thu, viết năm 2003 tại Mỹ :

 

Đất khách gặp em ngỡ ngàng đôi mắt

Vĩ Cầm Thu thầm nhắc lá đau Thu

Ta không lãng mạn vì đôi mắt

Vì tiếng vang kia ! Lá Vĩ Cầm Thu

 

Lá gầy guộc rêm bước chân mùa gọi

Chim tìm nhau lạc giọng tím đàn

Ta tím đàn. Đôi mắt em vừa gọi

Em khóc tím than trên phím tím đàn

 

Đôi mắt nhuốm biệt ly. Em rất lạ

Mà ta rất quen đôi mắt nhuốm biệt ly

Trầm Khúc Tím. Chiều phai. Ta rất lạ

Khóc mù sương. Gom hết biệt ly

 

Em khóc tím than. Chiều phai không hết

Bầm tím bóng ta cho em kết tím hoa

Chiều phai. Chiều vẫn phai không hết

Ta chết tím đàn. Lá chết tím hoa

 

Hãy gom hết biệt ly trong đôi mắt

Hãy sưởi giùm ta cơn lạnh tím đàn

Và đừng nhắc biệt ly trong đôi mắt

Vĩ Cầm Thu xanh máu lá. Tím đàn…

 

Mang mang khúc tình ca nhã nhạc rung rinh. Nằm trong cô tịch, nhà thơ lặng yên, nghiền ngẫm bao tuồng đời diễn ra khắp ta bà là bóng hiện của cảnh giới tự tâm. Tâm mình nghĩ sao thì ứng hiện ra cảnh đời như vậy đấy thôi. Rồi thôi, thôi vậy một đời. Hay nghìn muôn kiếp cũng trôi bọt bèo. Ấy tuy nhiên vẫn còn theo. Bóng ai cái nghiệp còn vèo bay qua. Nghiệp thơ nghiệp mộng đây mà. Rung ngân mần tiếp tuôn ra dòng dòng. Méo tròn ngôn ngữ đục trong. Đều do mình buộc xỏ tròng hay buông… Vì thế thi sĩ thường hay lui về với chính mình, lặng lẽ độc thoại nội tâm trong Thi tưởng xứ uyên mặc, uyên tư, thầm Nói Một Mình :

 

Một mình chơi. Trong và ngoài vũ trụ

Hú mù ta ảo hóa đã nư chưa ?!

Thương tiếng khóc bạc đầu đang ứa nụ

Có cung cầm thùy lệ của muôn xưa

 

Một mình đếm. Vàng phai âm nát đá

Tượng hình âm thảo dã hát theo đêm

Vì tuyệt cú nhú âm cuồng bến lạ

Ngữ ngôn thừa mứa giọng buốt lời thêm

 

Một mình hỏi. Vì cớ chi diệu tưởng ?!

Ta bông đùa khua một tiếng chuông ngân

Lời ngậm đắng nuốt cay quay tám hướng

Bởi trong ngoài Tượng với Số phân vân

 

Một mình nhớ. Thơ chẳng cần chép lại

Chẳng vì đâu ! Trời đất rất ngu ngơ

Rất ngây dại chỉ mình ta nghe thấy

Gió vô cầu câu thệ nguyện vu vơ

 

Một mình chết. Mút mùa thơ tảng mộ

Đìu hiu âm nghe trốt gió thâm tình

Ta khép mắt nhớ khôn hàn bóng nhỏ

Có trong ngoài vũ trụ cháy lời kinh…

 

“Vũ trụ cháy lời kinh” hay cháy lời thơ là một cách nói gây ấn tượng. Thơ thì thào cô liêu đến rợn người, thi sĩ “nói một mình” hay nói với thiên thu vạn đại đang đi về trong từng sát na gay cấn, mở phơi trường mộng của vũ trụ cháy lòa những lời kinh đang sáng ngời chói lọi. “Nói một mình” cũng là cách đùa chơi, niêm hoa vi tiếu phiêu nhiên, phiêu hốt giữa thiên địa tuần hoàn, bát ngát bao la.

 

Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ vốn có máu cuồng sĩ trong người, nhưng cuồng sĩ theo nghĩa phá chấp triệt để, phá vỡ sự nô lệ, ràng buộc, muốn vượt thoát khỏi guồng máy nặng nề của xã hội. Thích tự do thoải mái, mặc sức tung hoành ngang dọc, ca hát nghêu ngao, nhảy múa đùa chơi như trẻ nhỏ tung tăng. Hằng ngày tuy rất tỉnh táo, tỉnh thức nhưng trong vô thức lại muốn điên cuồng, muốn bứt phá những ngục tù cơm áo, những lề thói đối đãi để tiêu dao vào xứ miền Hoan Hỷ Địa ngao du :

 

… Nghĩa lá mục cành khô sông đã giữ

Núi đã ôm ánh biếc phím xanh ngời

Tay đã vắng cầm dương trôi biệt xứ

Nhớ và quên : Hoan Hỷ Địa Điên Chơi…

 

Điên chơi tới cõi bờ Hoan Hỷ Địa là đã nhập cảnh giới vô phân biệt trí, diệu quan sát trí phi thường rồi. Đó là những cơn điên tuyệt hảo náo nhiệt, tưng bừng của vũ trụ càn khôn. Cảnh giới đó chỉ có những bậc cao thủ, thượng thừa cỡ Tế Điên, Bùi Giáng… mới nhập nổi, còn những kẻ hạ thừa chưa thoát khỏi vòng lý trí thì thỉnh thoảng cũng điên lai rai, điên hứng khởi theo kiểu say rượu, múa may quay cuồng điệu tào lao, bá láp bá xàm, khề khà giọng ba rơi tầm phào cho đỡ buồn thế thôi :

 

Đất điên theo kiểu đất

Trời điên theo kiểu trời

Phật điên theo kiểu Phật

Mang cái thân con người

Nên điên theo kiểu Phật…

 

Sau biến cố 1975, thi nhân có một người em trai kế, do số phận trong buổi giao thời đã mắc bệnh tâm thần phân liệt, suốt từ 1978 đến ngày từ trần vào cuối năm 2013, sau gần một năm nằm liệt nửa người vì cơn đột quỵ, thi nhân đau buốt tâm can theo những cơn điên loạn của người em bạc mệnh, rồi suy ngẫm về cái điên :

 

… Trời điên theo kiểu của trời

Đất điên theo kiểu của đời đảo điên

Em điên theo kiểu người hiền

Ta điên theo kiểu thằng ghiền chiêm bao

Nghiệp duyên ? Đáp số thế nào ?

Đào sâu lỗ huyệt – Càng đào càng ngu !

Trời điên theo kiểu mịt mù

Đất điên theo kiểu ngục tù trần gian

Em điên theo kiểu nát tan

Ta điên theo kiểu bầm gan kiếp người

May đâu còn chút mồng tươi…

 

Suy ngẫm về cái điên của người em rồi ngẫm suy phận mình, phận người, phận đời… Vậy là, điên hay tỉnh, tỉnh hay điên ? Biết sao mà nói giữa miền hợp tan. Bao nhiêu mộng sự xiêu tàn. Là bấy nhiêu chuyện trần gian vô thường. Khóc tràn lệ nóng máu xương. Rợn màu dâu bể đoạn trường núi non. Hỡi ơi ! Lời mất hay còn. Kể chi ý nghĩa từ cơn cuộc này…

 

Kể làm sao cho hết được những nỗi đời trầm thống phải không ? Sống lang thang lãng tử, biệt xứ hơn mười năm trời trong sầu nhớ khôn nguôi về quê nhà, cố xứ mù xa, rồi một hôm bất chợt nghe hung tin mẹ già đã tàn xiêu yếu ớt, còn gắng gượng chút tàn hơi thở sau cùng, nên thi sĩ liền vội vàng, tức tốc bay về cố quận. Rưng rưng quỳ xuống giữa vườn xưa, còn thưa thớt màu cỏ cây héo úa, tàn tạ trong nắng xế chiều tà vàng vọt, sụp cúi lạy mười phương gò đống, mồ mả, lạy hết cõi ta bà mà tạ ân sâu nghĩa nặng tình thâm :

 

Con về bên Mẹ, nghe huyết âm

Nghe tủy xương réo rắt mưa dầm

Có lịch kiếp chảy xiết huyễn ảo

Cho tuyệt cùng âm, âm điếc thâm

 

Con về bên Mẹ, thấy tuyết đỏ

Thấy tủy xương trong veo vút gió

Có trầm luân chảy theo tiếng chuông

Cho hồn cháy xanh um cổ độ

 

Quỳ xuống lạy mười phương gò đống

Trắng biệt ly kỳ mộng hư hao

Niềm thương tưởng tiếng chào bi thống

Thuở thai sinh bưng mặt khóc òa

 

Con về bên Mẹ, nghe tà dương

Nghe tiếng kêu chiêm chiếp đoạn trường

Đất trời tuyệt tự, thơ tuyệt mệnh

Ươm nụ huyết âm dầm buốt hương

 

Con về bên Mẹ, thấy lá thắm

Thấy tinh sương xướng âm thăm thẳm

Lục phủ ngũ tạng bè mây trôi

Tụng một thời kinh cho huyết ấm

 

Quỳ xuống lạy hết cõi ta bà

Tai mắt rưng rưng rừng thi ca

Chắp tay hứng trọn huyết âm Mẹ

Lô hỏa thuần thanh âm huyết hoa !!!

 

Mẹ và em là hai hình ảnh đẹp đẽ nhất trên cõi nhân gian này, đẹp quá đi thôi, khiến chàng thi sĩ ghiền sống đến độ say mê dữ dội, dang rộng hai tay ra mà ôm trọn lấy toàn thể cuộc đời. Giống như văn hào Dostoievsky nói : “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” Nguyễn Lương Vỵ cũng đem hết tâm tình hiến dâng cho cái Đẹp, phụng sự  cái Đẹp qua hành động rất trân trọng là quỳ lạy cái Đẹp, một hành động tôn nghiêm như lạy Phật, lạy Chúa chưa từng thấy xưa nay :

 

Lạy em đẹp mãi cho ta mừng

Mần thơ ào ạt như chưa từng

Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng

Cỏ áy hừng đông mượt quá chừng…

 

Lạy em đẹp mãi cho ta vui

Mần thơ ngùn ngụt ngún một nùi

Chẳng sợ hồn tan hay vía nát

Rất vô tư nhậu với ngậm ngùi…

 

Lạy em đẹp mãi cho ta sướng

Mần thơ cộng hưởng với âm u

Chẳng sợ đầu non hay cuối vực

Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…

 

Nhìn thấy tất cả cái gì trước mắt, từ hoa lá cỏ cây đến tinh tú, càn khôn vũ trụ, bất cứ cái chi chi cũng đều đẹp hết qua hình ảnh người em thi ca. Em là biểu tượng cho cái đẹp hoàn hảo, trinh nguyên tuyệt diễm nhất của trần thế. Em là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật thi ca, âm nhạc, hội họa và tác động mạnh mẽ vào mọi lãnh vực xã hội trong cuộc sống. Người thi sĩ biết sáng tạo ra cái mới lạ, biết sống triệt để kỳ cùng cho bùng nổ hết tam độc tham, sân, si cùng vỡ tan hoang hang ổ vô minh, nghiệp chướng. Từ đó mới rực sáng tinh anh, thanh tịnh tâm hồn mà thưởng thức vẻ đẹp Chân Thiện Mỹ kỳ tuyệt hiện về trên dòng yêu thương trong trẻo rạt rào, dào dạt từ suối nguồn muôn thuở thương yêu diệu dụng.

 

Diệu dụng cũng là biết mình đã đầy đủ rồi, chẳng còn thiếu thốn điều chi. Biết đủ là một thái độ nhẹ nhàng, thanh thản của kẻ thông tuệ, lịch duyệt trong cuộc sống đầy dịch chuyển, biến động này. Không tham muốn, ôm đồm vơ vét, chẳng bươn chải, nhục nhằn chuyện ăn uống se sua. Thua với hơn làm chi nữa giữa ngày tháng rong rêu nơi xứ lạ quê người, thôi cứ nhẹ mỉm cười tri túc tự nhiên :

 

Biết đủ nên bài thơ viết chậm

Âm trùng âm, đầm đậm kiếp người

Gỏn lỏn một đôi lời lạnh ấm

Gởi về sau lẩm bẩm tài bồi

 

Biết đủ nên bài thơ viết nhanh

Ngôn trùng ngôn, níu thanh tượng thanh

Ta biệt xứ ?! Ừ ta biệt xứ

Mưa nắng bão bùng ngọn lửa xanh…

 

Ngọn lửa xanh mãi cháy ngời tịch mịch trong lòng dường như gần đến độ lô hỏa thuần thanh rồi, cho nên thi sĩ tuy ngậm ngùi nơi xứ lạ mà vẫn miệt mài sáng tạo và sáng tạo, nỗ lực kiên trì khai phá cõi thơ Hòa Âm Thâm Cảm với một nguồn thơ bát ngát tràn bờ Huyết Âm, Tinh Âm, Huyền Âm, cảm ứng Hòa Âm Bất Tận Tịch Mịch Sấm Rền trên cuộc về vô sở trú như nhiên.

 

Nguyễn Lương Vỵ đi về mặt đất hoang vu này, hú lên một tiếng hú lanh lảnh lạnh rờn giữa bao la trong bóng chiều thiên thu óng ả và hát vang bản Hòa Âm Câm Nín Máu vỡ cung sầu. Hòa Âm Câm Nín Máu là bản hòa âm tâm nội tối hậu, chan chứa một điều chi bí ẩn vô ngôn. Hòa âm muôn chiều diệu dụng phiêu bồng, phiêu lãng giang hồ bụi bặm, trầm túy ca qua những sa mạc khô cằn nóng bỏng, những cánh rừng tuyết băng lạnh buốt, suốt cuộc lữ hoang đàng vừa chạy vừa chảy và cháy ngời ngọn lửa thi ca bừng bừng rực đỏ.

 

Đó là bản hòa âm kỳ vĩ của Nguyễn Lương Vỵ, một thi nhân độc đáo, xuất cốt nhập hồn, qua lại lên xuống miền thực tại, chiêm bao ảo diệu. Dạo lên tấu khúc cung đàn đầy sáng tạo, vang ngân thần khí hý lộng ngôn ngữ nơi Thi tưởng xứ, nhảy múa cùng chữ nghĩa chon von, chốn ngọn ngành Tính Linh cực kỳ mỹ lệ.   

Thế là bản Hòa Âm Câm Nín Máu thấu thị tử sinh, thấu triệt cõi nguyên sơ mở rộng từ trái tim hồng tinh khôi đã ngân rung, rúng động tuyệt cùng với tất cả ba đời, sáu cõi trần sa. Hòa âm xanh ngát hàng ngàn bài thơ kính tặng mười phương thục nữ, thấm đượm gió trăng bằng hữu, thơm tho hương vị chí cốt ruột rà. Hòa âm giọt lệ và nụ cười, khổ đau và hoan lạc, địa ngục và thiên đường, thẩm thấu hai miền âm dương, vượt qua biên tế nhị nguyên nhằm mục đích hướng tới là nhảy tung vào cung bậc Nhất Như để rốt ráo tận cùng Hòa Âm với Tinh Âm, Huyết Âm, Huyền Âm tâm đắc ngay bây giờ và ở đây, một cách tự tại, thanh thản tự do.

 

Đó là khúc đại hòa điệu chơi, là bản hòa âm vĩnh viễn miên trường của Nguyễn Lương Vỵ, tôi đã có cơ duyên nhiều lần nghe ra qua những lần tao phùng, trùng ngộ với thi sĩ tại nhà riêng ở Gò Vấp hay các quán nhậu lai rai quanh phường phố Sài Gòn. Dịp gặp gỡ gần đây nhất, nhân chuyến thi sĩ về thăm quê, là buổi họp mặt đầu năm 2014 ở nhà nữ sĩ Lê Phương Châu, quận 6, Sài Gòn. Hôm ấy, có nhà thơ Võ Chân Cửu, Mịch La Phong, Triệu Từ Truyền, Nguyễn Hữu Duyên và nữ sĩ Nguyễn Kim Anh, Hạnh Hiền tham dự. Rồi vài ngày sau, ở quán Đất Phương Nam, có Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Tiến Văn, Phạm Việt Cường, Phù Hư và gần chục bằng hữu làm một trận lu bù, cụng ly tiễn đưa thi sĩ trở lại Mỹ. Bữa đó, tôi có mần bài thơ này như thầm gởi theo điều gì vi vu vi vút qua bên kia miền viễn xứ xa mờ, thở nhẹ tiêu dao du cùng mấy bờ sương khói tương tri :

 

THƠ TIỄN NGUYỄN LƯƠNG VỴ

 

Đã đi tận chân trời góc bể

Về nơi đâu cũng vậy tùy duyên

Không cầu chẳng đắc gì thêm nữa

Cứ thênh thang qua lại khắp trăm miền

 

Tan mù tối rơi trên cái thấy

Ngay bây giờ thở nhẹ tiêu dung

Cùng thơ nhập diệu phiêu bồng mở

Cửa thiên thu ôi tha thiết tuyệt cùng

 

Âm Vang Và Sắc Màu hư ảo

Tạo nên đời như huyễn mà thôi

Đôi bờ mộng thực đừng dính mắc

Thì tự nhiên xuống biển lên đồi

 

Hòa Âm với Tinh Âm Huyết Âm nhập

Vào vô thanh tan giữa vô hình

Huyền Âm thâm thúy trời Phương Ý

Dị thường nghe cơn gió thoảng phù sinh

 

Tâm Nhiên

( Vô Trú Am 03.2014 )

 

* Phạm Công Thiện. Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử. California 2000

Thơ Nguyễn Lương Vỵ ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :

Âm Vang Và Sắc Màu. Nhà xuất bản Trẻ, Sài Gòn 1991

Phương Ý. Nhà xuất bản Thanh Niên, Sài Gòn 2000

Hòa Âm Âm Âm Âm. Nhà xuất bản Thư Ấn Quán, New Jersey 2007

Huyết Âm. Q&P Production. California 2008

Tinh Âm. Q&P Production. California 2010

Bốn Câu Thất Huyền Âm. Q&P Production. California 2011

Tám Câu Lục Huyền Âm. Q&P Production. California 2013

Năm Chữ Năm Câu. Q&P Production. California 2014

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle