Những thăng 
			trầm của Phật 
			giáo  trong 
			lịch sử
			
			
			Lịch sử Phật 
			giáo đã chứng 
			kiến những năm tháng huy hoàng từ thế kỷ thứ III trước TL đến 
			thế kỷ thứ VI sau TL ở Ấn 
			Độ và từ thế  kỷ thứ XI đến thế kỷ XIII ở Đông Á. Xen kẽ là "Thời 
			đại ánh sáng" từ thế kỷ VI đến XI của  Đông 
			phương. “Một Đông 
			phương thống nhất về phương 
			diện tinh 
			thần thực có trong thời 
			kỳ này. Ở Ấn 
			Độ là triều 
			đại Gupta, ở Trung Hoa là các nhà Lương, Tùy, Đường, Tống và… 
			các nhà 
			sư Việt 
			Nam  (Giao Châu) đã góp một phần không  nhỏ vào sự tổng hợp tư 
			tưởng Ấn 
			Độ và Trung Hoa”(1).
			
			Trong những năm tháng đó, người ta được nghe, được đọc những tư 
			tưởng phong 
			phú và uyên 
			báccủa các Thiền 
			sư, Luận 
			sư lỗi 
			lạc, được thấy những công 
			trình nghệ thuật hoành tráng nhất ở các nước. Nhưng sau đó 
			thì đạo 
			Phật bước vào giai đoạn suy thoái. Cụ 
			thể ở Ấn 
			Độ, Bà-la-môn giáo đã trở 
			thànhẤn Độ giáo và sáp nhập một số tư 
			tưởng của Phật 
			giáo. Theo sử sách, dựa 
			vào thế 
			lực của các dòng 
			họ quý 
			tộc, Ấn 
			Độ giáo tìm đủ mọi cách để chèn lấn Phật 
			giáo cho 
			đến khi quân Hồi 
			giáo tràn sang và xâm chiếm toàn cõi Ấn 
			Độ.
			
			Ở Trung Hoa và Việt 
			Nam thì Phật 
			giáo cũng bị tầng lớp sĩ 
			phu theo Nho 
			giáo ngăn 
			cản không cho phát triển, đặc 
			biệt phái Tống-Nho thậm chí mượn những tư 
			tưởng Phật 
			gia để giảng Tứ 
			thư, hay lập nên những thuyết mới pha trộn thiền 
			học để thu hút giới  trí 
			thức. Lịch 
			sử  ghi 
			nhận sự đàn 
			áp Phật  giáo lên đến đỉnh điểm trong loạn Thái 
			Bình Thiên Quốc. Sau đó  đến thời các tàu chiến Tây 
			phương tiến vào chinh 
			phục các nước Á Đông đồng 
			thời du 
			nhập một tín 
			ngưỡng mới: Thiên 
			Chúa giáo. Các nước phải ký các 
			loại hòa ước và cho 
			phép các cường quốc phương Tây được tự 
			do giảng 
			đạo mới.
			
			Nhìn lại giai đoạn suy 
			vi, có hai lý 
			do, theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, khiến cho Phật 
			giáo suy 
			yếu:
			
			Một là trí 
			thức rời bỏ 
			đạo Phật khi giáo 
			lý Thế 
			Tôn không còn là một nguồn tư 
			tưởng sống nữa. Các Tăng sĩ khép mình trong thiền  học, không 
			còn  nhập 
			thế khiến đạo 
			Phật mất đi sinh 
			khí vốn có trước đây.
			
			Thứ hai là đạo 
			Phật không còn  gắn 
			bó với xã 
			hội, đã bỏ quần 
			chúng. Đạo 
			Phật không còn là một  động 
			lực cải tạo xã 
			hội nữa thì quần 
			chúng chỉ còn mê 
			tín. Người ta tin vào thần 
			thông của pháp 
			lực, mà không chăm lo xây 
			dựng một 
			đời sống an vui trên nền 
			tảng Phật pháp.
			
			Nhưng sau Đệ nhị 
			thế chiến, “Đạo Phật bỗng bừng lên như ngọn hải đăng, trong 
			sáng và rõ 
			ràng  giữa đêm  tối mù mịt”(2). 
			Ở Ấn 
			Độ, Tiến  sĩ Ambedkar, một người Ấn giáo, đã tổ chức Đại 
			lễ quy 
			y cho ông và 500 ngàn người cùng 
			đinh nước Ấn, thuộc giai 
			cấp thấp nhất, cùng một số  trí 
			thức Ấn làm sôi động thế  giới và chính trường Ấn 
			Độ. Ông nhắc nhở mọi 
			người rằng, Đức 
			Phật nói cõi Niết-bàn mở ra cho tất cả mọi 
			người, không phân 
			biệt thế cấp và đạo 
			Phật là hy 
			vọng cuối 
			cùng của những  người cùng 
			khổ.
			
			Ở các nước Nam Á, người ta ghi 
			nhận sự xuất 
			hiện các đảng theo chủ 
			nghĩa xã 
			hội Á Châu và đảng Xã 
			hội Phật 
			giáo như tại Nhật 
			Bản, đảng Soka Gakkai với dấu hiệu hoa 
			sen, đã có 20 triệu thành viên vào thập niên 1970, đề 
			xướng áp 
			dụng nguyên lý 
			Phật giáo vào đời 
			sống xã 
			hội. Còn ở Việt 
			Nam, sau những phong 
			trào chấn 
			hưng Phật 
			học suốt  từ 1930 được cụ Lê Đình Thám khởi xướng với Hội An Nam 
			Phật học, cho 
			đến những cuộc vận 
			động sau này hình thành Hội Phật 
			học Bắc Kỳ và Hội Phật 
			họcNam Việt với cụ Mai Thọ Truyền, Phật 
			giáo đã dần khởi sắc. Nhưng đáng 
			kể nhất là trong mùa pháp nạn 1963, ngọn lửa Thích Quảng 
			Đức đã thắp sáng Đông Nam Á, đánh 
			thức lương 
			tâm các siêu cường và cho thấy sức sống mạnh mẽ tiềm tàng 
			của Phật 
			giáo .
			
			Những vấn 
			đề  trong việc phục 
			hưng Chánh 
			pháp
			
			Như đã nêu ở phần trên, một trong những lý 
			do khiến Phật 
			giáo suy 
			vi là quần 
			chúng rơi vào mê 
			tín. Nhìn lại thực trạng Phật 
			giáo hôm nay, không 
			phải sau những sự 
			cố “giải hạn, cầu vong” ở một số chùa phía Bắc lùm xùm trên báo 
			chí người ta mới nhận 
			ra Chánh 
			pháp đang bị hiểu sai, hoặc bị xuyên 
			tạctheo hướng có lợi cho những ai muốn vận dụng vì biên 
			kiến, tà 
			kiến hay trục lợi vì tiền bạc. Mà thực 
			tếngày xưa, trong phong 
			trào chấn 
			hưng Phật 
			giáo những năm 1930, cư 
			sĩ Tâm 
			Minh Lê Đình Thám qua những bài viết trên tạp chí Viên 
			Âm đã lên án những hiện 
			tượng thờ sai, lẫn 
			lộn giữa thần và Phật, giải sao, cầu vong, bói 
			toán, phong thủy xâm 
			nhập trong hàng ngũ Tăng sĩ và tín 
			đồ ngày một nhiều, khiến quần 
			chúng lẫn 
			lộn giữa Phật 
			pháp và những giáo 
			lý hay quan 
			điểm khác.
			
			Cụ viết: “Nay chúng 
			tôi xét trong Phật 
			giáo đồ hiện 
			thời, thường 
			có thờ nhiều vị thần 
			thánh không có tên trong kinh 
			tạng, như Thập 
			Điện, Quan 
			Đế, Thánh 
			Mẫu, Thánh Hoàng, Thổ 
			Địa, Táo 
			Quân, Bổn Mạng, Nam 
			Tào, Bắc 
			Đẩu, Bà Thủy, Bà Hỏa, Ông Quận, Ông Mường, v.v… hoặc những vị 
			có tên trong kinh 
			tạng, nhưng chỉ là hàng thính 
			chúng hay là hàng Hữu 
			học, Thanh 
			văn, như Phạm 
			Thiên, Đế 
			Thích, Vi 
			Đà, v.v… không đáng thờ chung với Phật và Đại Bồ-tát... Còn 
			về sự trì tụng, thì ngoài những kinh đã có trong Đại 
			tạng, không nên tụng các kinh ngụy tạo, như kinh Ngọc Hoàng, 
			kinh Thập điện, kinh Bát 
			dương, kinh Ông Táo, 
			kinh Đào viên, kinh Cao 
			vương, v.v…”(3).
			
			Trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, tác 
			giả Lê Học Lãnh Vân viết về những cơ 
			duyên khiến mình đến với Phật 
			pháp, cảm nhận về chùa chiền và tín 
			đồ hiện nay khác đi nhiều so với ngày 
			xưa, ấy là: “Một phần rất lớn của xã 
			hội lạc bước vào mê 
			tín. Cứ xem cách họ cúng bái và chen 
			nhau giành giật cúng bái đình chùa, lễ 
			hội... Cứ xem những điều họ cầu 
			xin giữa mù mịt khói nhang. Cứ nhìn họ tin vào và vái lạy 
			những thầy cúng giải vong, trục vong hay cúng những điều nhảm 
			nhí khác…”. Điều này phản 
			ảnh một xã 
			hội mà “Lịch sự, hiền 
			lương, chân 
			thật, nhân 
			từ lần lần bị lấn át bởi thô 
			bạo, bất lương, dối 
			trá, tàn ác... Có thể nói 
			nhiều giá 
			trị đạo 
			đức bị đảo 
			lộn(4)...
			
			Vì sao cần phục 
			hưng Phật giáo?
			
			
			Đạo đức đang xuống cấp?
			
			Trong phiên chất vấn của Quốc hội, đại 
			biểu Đinh Thị Kiều Trinh đề nghị Bộ trưởng VH-TT&DL Nguyễn 
			Ngọc Thiện cho 
			biết các giải 
			pháp để khắc phục tình 
			trạng đạo 
			đức xã 
			hội, gia 
			đình đang xuống cấp nghiêm 
			trọng. Thừa 
			nhận thực trạng này, Bộ trưởng Thiện cho rằng nhiều giá 
			trị tốt 
			đẹp của dân tộc bị mai 
			một; tình 
			trạng suy thoái đạo 
			đức trong cán bộ, đảng viên gia 
			tăng; đạo 
			đức nghề nghiệp sa 
			sút; gian 
			lận trong học 
			hành, bằng cấp; tình 
			trạng chạy chức chạy quyền; bạo lực gia 
			đình, bạo lực với người cao tuổi... đang diễn ra.
			
			
			Như vậy, xét cả đạo lẫn đời, với  số lượng Phật 
			tử đông đảo, Phật 
			giáo cần 
			phải phục 
			hưng nếu chúng 
			ta hướng đến việc xây 
			dựng một xã 
			hội hiếu hạnh trong một cuộc xây 
			dựng đạo 
			đức toàn 
			diện, triệt 
			đểvà hướng  thượng.
			
			
			
			Xây dựng những gì?
			
			
			Về phương 
			diện cá 
			nhân
			
			
			Phải chăng vẫn cần nâng 
			cao dân 
			trí, nhưng ngoài 
			ra phải nâng 
			cao chuẩn mực văn 
			hóa. Cụ 
			thể, có lần chúng 
			tôi đã đề cập là gột 
			rửa bệnh thái tâm 
			lý xa 
			hoa, tinh 
			tiến về tri 
			thức và nhận 
			thức, tu 
			dưỡng nếp 
			sống mới, nhân 
			sinh quan mới, tận dụng thời 
			gian, vui 
			hưởng cuộc sống thanh 
			bạch hàng ngày, làm việc hết 
			sức mình nhưng không thái 
			quá, tri 
			túc để biết sống nếp 
			sống giản dị thanh 
			đạm, phù 
			hợp với mức thu nhập và điều 
			kiện chung quanh, sống không tranh 
			chấp, cùng nhau tiến 
			bộ.
			
			
			Về phương 
			diện xã 
			hội: Xiển dương Chánh 
			pháp
			
			Phải xây 
			dựng lại đạo 
			pháp chăng? Phải tránh những vết xe đổ của quá 
			khứ. Phật 
			giáo thời các vua nhà Lý  hay nhà Lê những đời 
			sau có thời 
			gian tin vào yêu thuật, bùa chú, nhu nhược và kém sáng 
			suốt. Một khi tôn 
			giáo không gần với quần 
			chúng hay Chánh 
			pháp mà dựa 
			vào ngoại lực, tha 
			lực, vào những chuyện huyền bí hay nghi 
			lễ hình 
			thức quá nhiều thì chắc 
			chắn sẽ suy vong. Phật dạy “Này Ananda, không phải lễ 
			bái là tôn 
			kính và làm vẻ 
			vang Như 
			Lai đâu. Bất luận một một Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào và bất 
			luận một thiện 
			nam hay tín 
			nữ nào biết lời giáo 
			huấn, gắng giữ phẩm hạnh trang 
			nghiêm, đời 
			sống chân 
			chính, thì là người ấy tôn 
			kính và làm vẻ 
			vang Như 
			Lai một cách cao thượng  nhất”(5).
			
			Trong những chủ 
			đề của ngày Đại 
			lễ Vesak Liên 
			Hiệp Quốc được tổ chức lần thứ ba tại Việt 
			Nam, đáng chú ý là chủ 
			đề (2) là thảo 
			luận về “Cách  tiếp cận của Phật  giáo về gia 
			đình hòa 
			hợp, chăm sóc sức 
			khỏe và xã 
			hội bền vững”  và chủ 
			đề (3) là “Cách tiếp cận của Phật 
			giáo về giáo 
			dục và đạo 
			đức toàn cầu”.
			
			
			
			
			Xã hội hài hòa là xã 
			hội bền 
			vững
			
			
			Xã hội vốn mang nghĩa hài hòa. Với Tây 
			phương là société, society, từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa 
			companion, bạn cùng sống, bạn đồng 
			hành.
			
			
			Vậy thì xã 
			hội hài hòa là gì? Trước hết, là sự hài hòa trong từng bộ 
			môn. Chẳng hạn kinh tế phải tạo ra sự hài hòa trong chính nó: hài 
			hòa giữa thành thị với nông thôn, hài hòa giữa giàu và nghèo, hài 
			hòa với môi trường 
			sinh thái, với địa lý tự 
			nhiên, với tài nguyên…
			
			
			Tác giả Nguyễn Thế Đăng trong một bài viết về xã 
			hội hài hòa trên báo Văn 
			Hóa Phật 
			Giáo cho rằng “Sự hài hòa căn 
			bản và rộng lớn là sự hài hòa của ba lĩnh vực, ba phạm 
			trù ở trên, thế 
			giới vật 
			lý (Địa), thế 
			giới con 
			người (Nhân) và thế 
			giới tâm 
			linh (Thiên)... Nói theo những bộ môn đại 
			diện cho mỗi lĩnh vực ở trên, xã 
			hội hài hòa là sự hài hòa của ba lĩnh vực kinh tế, khoa học 
			kỹ thuật với văn 
			hóa và với tôn 
			giáo. Sự bền 
			vững, giàu mạnh, phát triển (cả vật 
			chất và tinh 
			thần) của xã 
			hội và của ba lĩnh vực đó trong một sự hài hòa đồng bộ với 
			nhau"(6).
			
			 Điều 
			kiện của một xã 
			hội bền 
			vững
			
			
			Định chế an sinh 
			phải được  thiết  lập
			
			Một xã 
			hội mà người dân được chăm lo về an sinh từ y tế cho 
			đến giáo 
			dục, là một  ước 
			mơ. Đây là yêu 
			cầu  tiên 
			quyết.
			
			
			
			
			Giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo
			
			Kết quả điều 
			tra mức sống hộ gia 
			đình tại Việt 
			Nam cho thấy rằng khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với 
			bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo, trung bình, cận giàu) đã tăng 
			nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về 
			thu nhập.  Chúng 
			ta cần hết 
			sức lưu 
			ý tình 
			hình phát triển  những vùng sâu, vùng xa, vùng núi và ngay cả 
			trong những khu ổ chuột ở thành  phố, vẫn còn có những gia 
			đình sống trong những căn nhà tạm bợ, thiếu 
			thốn các điều 
			kiện sinh 
			hoạt cơ bản. Chúng 
			tahiểu rằng hố ngăn cách  giàu - nghèo là vấn 
			nạn chung của các nước tăng 
			trưởng nhanh. Làm thế nào để tránh tình 
			trạng “bình quân mỗi người một con gà, nhưng một người có 
			chín, chín người có một”
			
			Giáo sư Trần Ngọc Ninh nhận 
			định: “Xã hội Phật 
			giáo là một xã 
			hội để phục 
			vụ con 
			người chứ không phải để bóc 
			lột con 
			người; một xã 
			hội để giải 
			phóng con 
			người chứ không phải để ràng 
			buộc con 
			người; một xã 
			hội đem lại sự diệt 
			khổ chứ không tạo ra đau 
			khổ miên trường; một xã 
			hội giúp con 
			người thực 
			hiện Phật 
			tâm của mình vượt ra ngoài  các trở ngại chứ không phải để 
			dồn con 
			người vào sự hoại vong, không đường gỡ”(7).
			
			Một nền kinh tế theo chủ trương Phật 
			giáo trước 
			tiên phải lo giải 
			quyết những nhu cầu căn 
			bản, đói rét, cơm áo, bệnh 
			hoạn, nhu cầu giáo 
			dục, trường học và  công ăn việc 
			làm cho người dân. Đó là những điều 
			kiện tối 
			thiểu cho sự giải 
			phóng con 
			người trong xã 
			hội, tạo những điều 
			kiện vật 
			chất  của tự 
			do tâm 
			linh.
			
			Nói cách khác, xã 
			hội Phật 
			giáo là xã 
			hội theo nguyên lý trung 
			đạo. Nền kinh tế trong xã 
			hội đó buộc mỗi người làm việc theo chí 
			hướng và khả năng và  đóng góp việc 
			làm vào sự lợi 
			ích chung, nhưng ngược lại  nhà nước phải đảm 
			bảo được cơm áo và những điều 
			kiện cần 
			thiết, để tạo nên sinh 
			hoạt một cách đồng 
			đều cho toàn  thể. Nói cách khác, trung 
			đạo là con 
			đường nhân 
			bản. Trung 
			đạo là con 
			đường để phục 
			vụ, để dẫn dắt con 
			người hướng lên trong tinh 
			thần và trí  tuệ.
			
			
			Trung đạo không phải là một con 
			đường đòi hỏi và quá khó khăn, chỉ hướng đến  một xã 
			hội có một mức sống tới thiểu,  mà là xã 
			hội văn 
			minh phải thực 
			hiện cho toàn dân. Trong cùng một nước, người dân ở một mảnh 
			đất hoang cũng có quyền, có một mức sống tối 
			thiểu ngang với người dân ở miền châu thổ phì nhiêu, vì cả 
			hai đều làm việc.
			
			Một xã 
			hội mà người dân không được quyền chia sẻ những phúc 
			lợi, hưởng những thành 
			quả văn 
			hóa, kinh tế mà thành phố mình, đất nước mình đã đạt 
			được thì vẫn xem 
			như thất bại trong việc kiến 
			tạo xã 
			hội bền 
			vững. Làm thế nào dẫn dắt toàn dân đến  một xã 
			hội hài hòa cả Thiên- Địa - Nhân, trong đó sự phát triển tâm 
			linh và nền tảng văn 
			hóa là yêu 
			cầu tất yếu.  Đó là con 
			đường phục 
			hưng Phật 
			giáo trong xã 
			hội hôm nay, hướng đến ngày mai. 
			 
			
			
			 
			
			(1) Trần 
			Ngọc Ninh, Đức 
			Phật giữa chúng 
			ta, Lá 
			Bối , 1972.
			
			(2) ibid.
			
			(3) Thư 
			của thầy Đạo 
			hạnh cố 
			vấn Đắc Quang và ngài Giáo 
			lý kiểm 
			duyệt Lê Đình Thám gửi cho Tổng Trị sự trình về việc thờ tự, 
			cúng cấp, trì tụng ở các hội quán hội An Nam 
			Phật học, Viên 
			Âm 42, tháng 10, 1940.
			
			(4) Lê 
			Học Lãnh Vân, Cảm 
			ơn chùa Ba Vàng, Thời báo KTSG, 29-3-2019.
			
			(5) Tăng 
			chi bộ kinh.
			
			(6) Nguyễn 
			Thế Đăng , Xã 
			hội hài hòa. Xem tại:  http:// www.thuvienhoasen.org.
			
			(7) Trần 
			Ngọc Ninh, Đức 
			Phật giữa chúng 
			ta, Lá 
			Bối, 1972,  ibid.