Trầm cảm như là một tâm sở

tram cam

TRẦM CẢM NHƯ LÀ MỘT TÂM SỞ

 

1. Trầm cảm như là một tâm sở

Thông tin này được rút ra từ tác phẩm Chết, vào thân trung ấm và tái sinh theo Phật giáo Tây Tạng. Lâu nay truyền thống Duy thức với các quyển Bách pháp minh môn luận, Duy thức Tam thập tụng hay là Thành Duy thức luận chỉ đề cập đến 51 tâm sở. Theo quyển Chết, vào thân trung ấm và tái sinh theo Phật giáo Tây Tạng thì chúng ta có đến 80 tâm sở và trầm cảm là một tâm sở màu đen, được cắt nghĩa là tâm phiền muộn. Đây là một tin mừng dành cho các bệnh nhân trầm cảm. Bệnh trầm cảm được quan niệm là không thể chữa khỏi. Nếu chấp nhận trầm cảm như là một tâm sở thì bệnh trầm cảm hoàn toàn có thể chữa lành được, vì ngoài tâm sở trầm cảm ra, chúng ta còn có rất nhiều tâm sở tích cực để thay thế. Thông thường chúng ta có mười một tâm sở thiện, đó là tín, tàm, quý, vô tham,  vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.

2. Mối nguy hại của trầm cảm

Trầm cảm không loại trừ một ai. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã từng dự báo rằng năm vừa qua, năm 2020, trầm cảm là căn bệnh gây tàn phế đứng thứ hai thế giới, xếp sau bệnh tim. Tuy nhiên không phải ai bị trầm cảm cũng trở thành tàn phế. Abraham Lincoln bị trầm cảm nghiêm trọng trong suốt cuộc đời, nhưng ông đã lãnh đạo nước M vượt qua được nhiều khó khăn cho đến ngày ông bị ám sát. Các nhà văn như Charles Dicken hay Leo Tolstoy đều bị trầm cảm nhưng họ vẫn có những đóng góp to lớn cho nền văn học thế giới. Điển hình nhất là nhà văn nữ J.K.Rowling, tác giả của bộ truyện Harry Potter. Bà đã bị trầm cảm đến mức từng muốn tự sát nhưng sau đó đứa con tinh thần Harry Potter đã khiến bà trở nên nổi tiếng và giàu có.

Chính trong tác phẩm Harry Potter, Rowling đã mô tả bệnh trầm cảm dưới hình ảnh các giám ngục Azkaban. Đó là những sinh vật không có tình người, không cảm xúc, nơi nào chúng đi qua, nơi đó lạnh lẽo và băng giá. Chúng làm người ta luôn nhớ đến những ký ức tồi tệ nhất và có cảm giác không bao giờ vui được nữa. Cách để xua đuổi những tên giám ngục, hiện thân của bệnh trầm cảm, đó là nhớ đến một ký ức hạnh phúc nhất.

Bản thân tôi cũng đã từng phải vượt qua trầm cảm, cho nên tôi viết bài này để động viên chính mình và những ai đã từng một lần rơi vào phiền muộn. Rằng ai cũng có hạt giống trầm cảm trong tâm. Rằng trầm cảm không phải là một căn bệnh nan y. Nhưng chúng ta cần ý thức được tầm nguy hiểm của chứng bệnh này.

Trầm cảm nghĩa là bạn buồn không phải vì mọi chuyện không diễn ra theo ý muốn, mà buồn khi tất cả mọi thứ vẫn tốt đẹp. Mới sáng hôm qua thôi, tôi bước ra ngoài trời và bắt gặp một buổi sáng trong veo như sáng mùa thu. Mặc dù vừa trải qua đợt nắng gay gắt nhất của giữa mùa hè, nhưng những trận mưa đã làm không khí dịu lại. Gió mát, nắng vàng, và trời thì trong đến nỗi những rặng núi ở đằng xa đã hiện lên rõ mồn một. Một dải hoa cỏ lạc màu vàng tươi sáng khoe sắc dọc đường vào chùa. Cảnh buổi sáng dịu dàng, êm đềm và xinh đẹp đến thế mà tôi nhận ra mình không thể nở được một nụ cười. Thiệt thòi cho tôi biết bao. Thiên nhiên hữu ý mà người thì vô tình. Đó là do hạt giống buồn đau trong lòng tôi còn quá lớn, nhưng nhận ra mình phiền muộn giữa một khung cảnh nên thơ như thế cũng đã là một tiến bộ rồi.

Mối nguy hại nhất khi bạn mắc chứng trầm cảm không phải là nguy cơ tự sát, mà theo tôi, chính là lòng tự trọng của bạn giảm sút. Cũng vừa hôm qua tôi bị sư huynh mắng là không biết xấu hổ. Trong khi mọi người tất bật làm việc thì tôi ngủ và ngủ. Ngủ để quên phiền muộn, để xoa dịu những tổn thương mà phần lớn là do mình gây ra. Và một người bình thường không bao giờ hiểu được cảm giác của một người trầm cảm. Vì vậy tôi tha thứ cho chính mình và không suy nghĩ gì về những lời đánh giá không biết xấu hổ của người khác. Đơn giản vì họ nói đúng. Vấn đề là tôi phải tự tưới tẩm hạt giống tàm quý cho chính bản thân mình. Cảm giác của người trầm cảm là muốn giúp đỡ người khác nhưng thấy mình bất lực và vô dụng. Từ chỗ đó, người khác nhìn họ như một loại người vô cảm với nỗi đau của người khác, tệ hơn là không biết xấu hổ.

3. Nguyên nhân của trầm cảm

Đức Phật từng dạy rằng nguyên nhân của bệnh tật là do tâm ô nhiễm. Tâm ô nhiễm làm máu ô nhiễm, từ đó sinh ra các loại bệnh.

Khi nói đến nguyên nhân của trầm cảm, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn giải thích ngắn gọn là do không biết thương yêu người khác. Một quyển sách khác nói rõ về trầm cảm là quyển Điều trị bệnh tận gốc, năng lực chữa lành của tâm bi mẫn. Quyển sách này chỉ ra hai nguyên nhân của trầm cảm: thứ nhất là do tâm vị k, thứ hai là do nghiệp tà dâm trong quá khứ.

Hiểu được điều này chúng ta dễ dàng loại trừ nguyên nhân gây trầm cảm để chấm dứt căn bệnh. Với tôi, rải tâm từ là một phép thực tập rất dễ chịu. Ngay khi vừa niệm Mong cho tôi không có oan trái với mọi chúng sinh, mong cho tôi thoát khỏi sự khổ tâm, mong cho tôi thoát khỏi sự khổ thân là ngay lập tức tôi đã có thể mỉm cười. Cảm thấy mình thương yêu được chính mình. Trước kia tôi cứ lầm tưởng rằng thỏa mãn được mọi ước vọng của thân xác là thương thân, nhưng không phải vậy

Phát Bồ tâm cũng là một cách để vượt thoát trầm cảm. Nếu như rải tâm từ là cách để thương yêu chính bản thân mình và người khác thì phát Bồ tâm giúp chúng ta khắc phục tâm vị k. Đây là bài học phát Bồ tâm mà tôi đã được dạy: “Chúng sinh sung mãn hư không giới, phiền não sung mãn khắp chúng sinh, ác nghiệp sung mãn khắp phiền não, khổ bức sung mãn khắp ác nghiệp. Những chúng sinh đang chịu khổ kia đều đã từng là cha là mẹ của mình, tất cả đều có ơn nặng với mình, mình phải làm gì để họ an lạc đây. Hiện giờ, tôi không có khả năng gì để cứu giúp họ được cả, vì vậy, để làm lợi ích cho những chúng sinh này, tôi phải chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh”. Cho đến nay, bài học này vẫn luôn làm tôi dễ chịu mỗi khi nhớ đến.

Một bài học khác để thoát khỏi trầm cảm mà tôi từng áp dụng hiệu quả là quán chiếu hạnh phúc mỗi ngày đồng thời lạy danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Quán chiếu hạnh phúc là để tưới tẩm hạt giống hạnh phúc cho bạn, một lúc nào đó hạt giống trầm cảm sẽ bị đẩy lùi, và lạy danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là để cầu tha lực, đồng thời sám hối nghiệp tà dâm đã khiến bạn mắc chứng trầm cảm. Phẩm Phổ môn của kinh Pháp hoa dạy: “Nếu người nhiều dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát liền được ly dục”. Khi quán chiếu hạnh phúc, bạn tìm ra những điều gì làm bạn hạnh phúc mỗi ngày rồi để nó trong tâm, nó sẽ nuôi dưỡng bạn. Nếu bạn chưa nghĩ ra thì bảy thứ hạnh phúc sau đây có thể đúng trong mọi trường hợp:

1. Ta đang còn sống

2. Ta có sức khỏe

3. Ta có đủ sáu căn

4. Ta có tự do

5. Ta có phương tiện vật chất

6. Ta có tình thương

7. Ta có sự hiểu biết

4. Trầm cảm là vô thường

Trầm cảm làm chúng ta mất đi lòng tự trọng. Trong trường hợp đó, tín ngưỡng có thể cứu rỗi chúng ta. Bản thân tôi may mắn đến với Phật giáo trong những ngày trầm cảm. Có những lúc đầu óc căng thẳng biến tôi trở nên bất bình thường, nhưng chỉ cần theo đại chúng tụng kinh Pháp hoa là tôi tỉnh táo trở lại. Thay vì đi vào bệnh viện tâm thần, tôi kiên trì đi hết chùa này sang chùa khác với niềm tin và mơ ước mãnh liệt về một hạnh phúc có thật, cho đến ngày tôi gặp vị thầy hiện tại của tôi.

Điều k diệu là chỉ nghĩ đến thầy tôi, tôi cũng đã đủ hạnh phúc. Nếu bạn nghĩ rằng làm tu sĩ Phật giáo thì luôn được người khác cho ăn kẹo ngọt, và tu viện Phật giáo là thiên đường đầy hoa, thì bạn lầm. Rất nhiều người cho rằng thầy tôi là một người khó tính, nhưng với tôi, thầy tôi là một người cực k dễ chịu và ngọt ngào theo cách riêng của Người. Người luôn tìm ra được ưu điểm của người khác để thương yêu.

Với cá nhân tôi, tôi có những k niệm nho nhỏ về tuổi thơ thiếu thốn của mình: ước mơ về những trái chùm bao chưa bao giờ được ăn trọn vẹn; ký ức về cây sồi mọc ven hồ trong vườn nhà bà nội, cứ mỗi trái nào ra là mấy chị em con nhà nghèo chúng tôi đợi chờ khao khát, mong đến lúc trái sồi phổng phao thơm lừng thì hái xuống chia mỗi người một miếng. Vậy mà khi tôi bước chân vào ngôi chùa của sư phụ tôi bây giờ, ở đó luôn có một vườn chùm bao chín vàng ươm và một cây sồi trĩu quả, thơm lừng trái chín, thế nhưng không ai đoái hoài, chỉ để làm mồi cho lũ dơi. Thỉnh thoảng sư phụ tôi cười hiền, nhắc khẽ: “Trái chùm bao ăn ngon lắm đấy nhé”. Nhưng Người chưa bao giờ ăn. Tôi có cảm giác sư phụ tôi nhìn thấy rõ cả quá khứ của tôi. Và sự hiện diện của Người đã chữa lành vết thương quá khứ cho tôi, lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn tôi từng chút từng chút một.

Trong cơn trầm cảm, tôi có thể thấy tôi là một người hoàn toàn đáng ghét. Đó là một người không có lòng tự trọng, không có lòng biết ơn, muốn làm tổn thương chính bản thân nhưng lại sợ người khác làm hại mình. Trong cơn trầm cảm, tôi thấy thế giới quay lưng lại với tôi, tất cả mọi người đều là kẻ thù của tôi, và tôi ra sức chống đối họ. Sự thật thì gia đình và bạn bè chỉ nhìn tôi với cái nhìn thương xót.

Tôi đã từng có cảm giác mình ở trong một đêm đen trường k không bao giờ thấy lối thoát. Trong chừng khoảng hai mươi năm tôi mất khả năng cười. Cho đến lúc tôi xuất gia, một hôm trong khi tôi đang chăm chú lau sạch hành lang trai đường, một cô bé trẻ măng đến gặp tôi và nói: “Cô ơi, con thấy trong lòng phiền muộn, cô có thể cho con ở chùa suốt ngày hôm nay được không cô?”. Phản xạ đầu tiên của tôi là nở một nụ cười thật rạng rỡ với cô bé. May thay, cô bé mỉm cười theo. Sau khi tâm sự, tôi biết nguyên nhân nỗi phiền muộn của em là từ một cuộc tình tay ba đồng tính. Mọi thứ quá khả năng của tôi nên tôi thưa với quý vị lớn. Đó cũng là cơ hội để tôi nhìn lại chính mình. Tôi không nghĩ có ngày mình có thể nở một nụ cười để cứu giúp người cùng cảnh ngộ và có thể làm họ cười theo. Tiễn cô bé về, tôi chỉ tặng em hai chữ vô thường.

Trầm cảm là một hiện tượng tâm lý, nó cũng vô thường như mọi hiện tượng khác. Sự thật là khi nghĩ đến vô thường mà đỉnh điểm là cái chết, chúng ta có thể cảm thấy thanh thản hơn rất nhiều, đặc biệt là với người hay sợ hãi, âu lo và nhiều bám víu như tôi. Cho nên một trong những cách hay nhất để vượt qua trầm cảm là nghĩ đến câu: “Chuyện này rồi sẽ qua”, như một câu thần chú cho mọi trường hợp.

Bạn cũng có thể quán nhân duyên để thấy mình nằm trong mối liên hệ với người khác và với xung quanh. Trong kinh Kim cương Đức Phật dạy:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ, diệc như điện

Ưng tác như thị quán.

Khi tiếp xúc với bài kệ này, điều làm tôi thắc mắc là “pháp hữu vi là gì”. Pháp hữu vi là các pháp do nhân duyên hòa hợp mà thành. Vậy thì chính thân thể này là pháp hữu vi. Nó do đất nước gió lửa mà thành. Nó không có thật, nó có đó rồi không đó. Năm uẩn là pháp hữu vi. Chúng vô thường, chúng không có thật. Nghĩ như vậy tôi có thể giải phóng mình ra khỏi sợ hãi và lo lắng. Tất cả đều chỉ là một cơn mộng.

Thích nữ Tuệ Anh

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle