So sánh bài kệ Thỉnh chư thiên và bài kệ Chúc tán Hộ pháp 
so sanh bai ke
So sánh bài kệ 
Thỉnh 
chư thiên 
và bài kệ Chúc tán Hộ 
pháp 
Thích Nguyên Ngộ
Thiên (天) 
tiếng Sanskrit là deva, có nghĩa là "người sáng rọi", "người phát quan”. 
Với phước báu 
đã tạo từ quá khứ, chư thiên 
thường 
có thọ mạng dài lâu, 
hưởng được 
sự sung sướng, 
tuy vậy 
vẫn chưa hoàn 
toàn thoát
khỏi 
vòng luân 
hồi (saṃsāra). 
Việc 
thọ hưởng 
những khoái lạc mà thiên giới mang lại là chướng ngại to lớn khiến 
chư thiên 
không giải thoát được. 
Vì 
không tự giác tỉnh về vô thường (dù tuổi thọ rất dài), duyên 
sinh, 
vô ngã… nên họ
không 
có sự nỗ lực tu tập để tiến đến các quả vị giải thoát. Và sau khi thọ hưởng hết 
phước của cõi 
trời, chư thiên 
sẽ tái sinh 
trở lại trong các thú, trôi lăn trong luân hồi; và phải thực hành thiện sự, 
tích luỹ phước báu mới 
có thể 
tái sinh 
lại vào thiên giới.
Phân loại chư thiên
Chư 
thiên được phân thành ba loại:
1. Samati Devatā: Chư 
thiên theo kiểu lạm xưng, tự tôn xưng, như các vị vua tự cho mình là thiên tử, 
tức con trời. Tuy nhiên, do phước báu quá khứ, được sinh làm vua, thì sự thụ 
hưởng ngũ dục của họ là đệ nhất ở thế gian, nên cũng được xem là “ông trời con”.
2- Upatti Devatā: Chư 
thiên hóa sinh trong 26 tầng trời, gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
3 - Visuddhi devatā: 
Thanh tịnh thiên, chỉ cho các bậc lậu tận, đã chấm dứt phiền não, đấy là chư 
Phật Toàn giác, Phật Độc giác, Phật Thanh văn giác. Trú xứ của các Ngài lúc còn 
thân xác hữu vi bao giờ cũng là cõi người. Có trường hợp các vị A-na-hàm đắc 
định Tứ thiền thì trú xứ tại Ngũ tịnh cư rồi Niết-bàn luôn ở đấy.
Trong 
kinh 
Sāleyyaka, Đức 
Thế Tôn đã
thuyết 
về 26 tầng trời như sau:
-                
Chư thiên cõi Dục giới:
1- 
Cātummahārājikā: Tứ 
Đại 
thiên vương
2- Tāvatiṃsa: 
Đao Lợi thiên
3- Yāmā: Dạ-ma 
thiên
4- Tusita: Đâu
Suất
Đà 
thiên
5- 
Nimmāmuratī: Hóa 
Lạc 
thiên
6- 
Paranimmitavasavatī: Tha Hóa Tự Tại thiên
-                
Chư thiên cõi Sắc giới:
7- Brāhma 
parisajjā: Phạm chúng thiên
8- Brāhma 
purohita: Phạm phụ thiên
9- 
Mahābrāhma: Đại phạm thiên
10- 
Parittābhā: Thiểu quang thiên
11- 
Appamāṇābhā: Vô lượng quang thiên
12- 
Abhassara: Quang âm thiên
13- Parittā 
subhā: Thiểu tịnh thiên
14- Appamāṇa 
subhā: Vô lượng tịnh thiên
15- Subhā 
kiṇṇā: Biến tịnh thiên
16- Asaññā: 
Vô tưởng thiên
17- 
Vehapphalā: Quảng quả thiên
-                
Suddhāvāsā: Tịnh cư thiên
18- Avihā: Vô 
phiền thiên
19- Atappā: 
Vô nhiệt thiên
20- Sudassa: 
Thiện kiến thiên
21- Sudassī: 
Thiện hiện thiên
22- 
Akaṇiṭṭhā: Sắc cứu cánh thiên
-                
Chư thiên cõi trời Vô sắc 
giới:
23- 
Ākāsānañcāyatana: Không vô biên xứ thiên
24- 
Viññāṇanañcāyatana: Thức vô biên xứ thiên
25- 
Ākiñcaññāyatana: Vô sở hữu xứ thiên
26- 
Navasaññānāsaññāyatana: Phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên.
Trong A-hàm, 
kinh Thế ký, đề cập cõi Sắc như sau: “Chúng sinh cõi Sắc có 
22 
loại, đó là: 1. Phạm thân thiên, 2. Phạm phụ thiên, 3. Phạm chúng thiên, 4. Đại 
Phạm thiên, 
5. Quang thiên, 6. Thiểu quang thiên, 7. Vô lượng quang thiên, 8. Quang âm 
thiên, 9. Tịnh thiên, 10. Thiểu tịnh thiên, 11. Vô lượng tịnh thiên, 12. Biến 
tịnh thiên, 13. Nghiêm sức thiên, 14. Tiểu nghiêm sức thiên, 15. Vô lượng nghiêm 
sức thiên, 16. Nghiêm sức quả thật thiên, 17. Vô tưởng thiên, 18. Vô phiền 
thiên, 19. Vô nhiệt thiên, 20. Thiện kiến thiên, 21. Đại thiện kiến thiên, 22. 
A-ca-nị-trá thiên”.
Còn theo luận
Câu-xá, quyển 8, phẩm 3 - Phân biệt thế giới, 
nêu 
ra 18 tầng thiên Sắc giới.
Sơ 
thiền có ba: 1. Phạm chúng thiên/梵眾天, 
2. Phạm phụ thiên/梵輔天, 
3. Đại Phạm thiên/大梵天. 
Nhị thiền có ba: 1. Thiểu quang thiên/少光天, 
2. Vô lượng quang thiên/無量光天, 
3. Cực quang tịnh thiên/
極光淨天. 
Tam thiền có ba: 1. Thiểu tịnh thiên/少淨天, 
2. Vô lượng tịnh thiên/無量淨天, 
3. Biến tịnh thiên/遍淨天. 
Tứ thiền có tám: 1. Vô vân thiên/無雲天, 
2. Phước sinh thiên/福生天, 
3. Quang quả thiên廣果天, 
4. Vô phiền thiên/無煩天, 
5. Vô nhiệt thiên/無熱天, 
6. Thiên hiện thiên/善現天, 
7. Thiện kiến thiên/善見天, 
8. Sắc cứu cánh thiên/色究竟天. 
Giữa tầng ba 
và bốn của Tứ thiền có một tầng cho chúng sinh Vô tưởng, 
được 
gọi là Vô 
tưởng thiên.
Những trường hợp được sinh thiên
Về 
việc tái sinh
vào 
thiên giới, 
trong kinh đề cập đến những trường hợp khác nhau như sau:
-        
Trường 
hợp của Tôn giả Pukkusāti. Đã từ lâu, Pukkusāti quy ngưỡng 
Đức 
Phật và mong muốn xuất gia, tuy chưa chính thức gặp Ngài. Nhân một chuyến du 
hành, cả hai cùng trú trong căn nhà của người thợ làm gốm Bhaggava. Nơi đây, 
Pukkusāti lần đầu tiên được diện kiến Đức Phật, được nghe Đức Phật thuyết giảng 
và Tôn giả đã phát tâm xin xuất gia. Trong 
lúc 
đi tìm y bát để đầy đủ pháp thọ giới Tỷ-kheo,
Tôn giả bị
một 
con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống. Đối với trường hợp này, Đức Phật xác 
chứng rằng Pukkusāti đã chứng đệ tam Thánh quả, sinh 
nơi thiên giới.
-        
Có 
một phụ nữ nghèo đang rang lúa, khi biết Tôn giả Kassapa vừa xuất định sau bảy 
ngày nhập định, bà đã phát tâm cúng dường phần lúa ít ỏi của mình cho Tôn giả. 
Sau khi dâng cúng xong bà hoan hỷ trở về nhà với thiện sự vừa làm. 
Trên 
đường đi, tín nữ bất ngờ bị một con rắn độc cắn chết. Do vì chết trong tín tâm 
và với thiện sự vừa làm, nên tín nữ tức khắc sinh 
lên cõi trời Ba mươi ba với tên gọi mới là thiên nữ Lājā.
-        
Thân 
phụ của Tôn giả Soṇa trước 
đó 
làm nghề săn bắn, về già ông bỏ nghiệp sát sinh 
phát tâm xuất gia và trở thành một vị Tỷ-kheo. 
Khi lâm chung, những ác nghiệp trong quá khứ đã diễn ra kinh hoàng 
khiến 
ông sợ hãi tột độ. Thấy vậy, Tôn giả Soṇa đã cho người khiêng cha đến gần một 
bảo tháp, cắt những cành hoa rồi yêu cầu cha hướng tâm cúng hoa lên tượng Phật 
và cây bồ-đề. Ngay khi ấy những cảnh tượng kinh hoàng kia biến mất và sau đó ông 
được sinh
thiên.
-        
Như được đề cập 
trong 
kinh Trung bộ, Bà-la-môn Dhānañjāni là một người ỷ thế vua, bóc lột các 
Bà-la-môn gia chủ, 
rồi lại 
ỷ thế các 
Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua. Vị Bà-la-môn này có thiện cảm với Tôn giả 
Sāriputta trong bài thuyết giảng trước đó, mặc dù chưa phát tâm quy y Tam bảo, 
nhưng lúc lâm chung, Bà-la-môn Dhānañjāni đã cho người mời Tôn giả Sāriputta đến 
thăm mình. Tại tư thất Bà-la-môn Dhānañjāni, Tôn giả Sāriputta trầm tư: Vị 
Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới, vậy ta hãy thuyết giảng con đường 
cộng trú với Phạm thiên, để 
nhờ 
đó Bà-la-môn Dhānañjāni 
sau khi 
mạng chung
sinh 
lên Phạm giới.
-        
Kinh
Đại bát Niết-bàn ghi rằng, có bốn thánh tích, gọi là Tứ động tâm (saṃvejanīyāni 
ṭhānāni cattāri), 
đó 
là nơi 
Như Lai đản sinh, 
nơi Như Lai chứng Vô thượng 
chánh 
giác, nơi Như Lai thuyết pháp lần đầu tiên, 
và nơi Như Lai nhập Niết-bàn. Nếu như bất kỳ ai, trong khi chiêm bái những
thánh 
tích ấy mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại 
mạng chung sẽ được sinh 
cõi thiện thú, cảnh giới chư 
thiên. 
Đây là một câu điều kiện, với lưu ý quan trọng rằng, trong khi chiêm bái những
thánh 
tích mà từ trần (kālaṁ) với tâm thâm tín hoan hỷ (pasannacittā), 
thì mới được sinh 
vào cảnh giới chư 
thiên 
(saggaṃ lokaṃ).
          Như 
vậy, qua những 
trường hợp trên chúng ta thấy, 
điều kiện để 
được sinh 
thiên chính là do phước báu hay thiện nghiệp. Tuỳ theo từng cấp độ mà hành giả 
được tương ứng với cõi trời nào, là thành viên của thiên cung nào. 
Các cấp độ được 
xét dựa trên 
tín (đức tin), giới (ngũ giới, bát quan trai giới), văn (nghe pháp), thí (bố 
thí, cúng dường), tuệ (biết nhân quả, thiện ác). Phước báu cũng có thể phát sinh 
từ 10 nguyên nhân sinh 
phước: bố 
thí, trì giới, tham thiền, cung kính, phục vụ, hồi hướng, công đức, tùy hỷ công 
đức, thuyết pháp, nghe pháp, chuyển tà kiến thành chánh kiến. Và còn nhiều thiện 
nghiệp, pháp hành khác cũng có khả năng 
giúp 
hành giả sinh 
thiên 
như Tứ 
vô lượng tâm, Thập 
thiện…
Hai bài kệ thỉnh chư thiên trong 
văn hệ 
Pāli và Hán ngữ
Bài kệ 
Thỉnh 
chư thiên 
trong văn hệ 
Pāli: “Sagge kāme ca rū pe girisikharatate cantalikkhe vimāne, Dīpe raṭṭthe 
ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette, Bhummā cāyantu devā jalathalavisame 
yakkhagandhabbanāgā, Tiṭṭhantā santike yaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu”.
“Xin thỉnh
chư
thiên 
ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; 
chư
thiên 
ngự trên đỉnh 
núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; 
ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; 
chư 
Dạ-xoa, Càn-thác-bà, cùng Long 
vương 
dưới nước trên bờ hoặc nơi không bằng thẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. 
Lời nào là kim ngôn cao thượng của Ðức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tôi tụng đây, 
xin các bậc Hiền 
triết 
nên nghe lời ấy.” 
Từ năm 1963 
đến 1980, 
khi Phật giáo Nam tông truyền vào Việt nam, chư 
Hòa thượng như Hộ Tông, Pháp Tri, Siêu Việt, 
v.v. đã biên soạn nghi lễ nhật hành của Phật giáo Nam tông dựa trên nguồn 
kinh 
điển Pāli. Từ đó bài kệ thỉnh chư thiên có mặt và được phổ biến trong các buổi 
lễ nghe pháp, tụng kinh, v.v. trong truyền thống Phật giáo Nam tông. Nội dung 
bài kệ là 
thỉnh 
mời 
các vị chúng sinh 
ở các cõi trời, ở khắp mọi nơi, chư Dạ-xoa, Càn-thát-bà, hay long vương đến nghe 
pháp thoại và thọ nhận những lời 
dạy 
của Đức 
Phật Thích-ca 
mà hành trì tu học.
Bài 
kệ Chúc 
tán Hộ pháp 
trong kinh Vô thường, 
thuộc 
Đại chánh 
tạng: 
“天阿蘇羅藥叉等 來聽法者應至心
擁護佛法使長存 各各勤行世尊教
諸有聽徒來至此 或在地上或居空
常於人世起慈心 晝夜自身依法住
願諸世界常安隱 無邊福智益群生
所有罪業並消除 遠離眾苦歸圓寂
恆用戒香塗瑩體 常持定服以資身
菩提妙華遍莊嚴 隨所住處常安樂”
“Trời, 
A-tu-la, Dạ xoa thảy
Đến nghe 
pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ 
Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị 
siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu 
người nghe đến chốn này
Hoặc trên 
đất liền hoặc hư không
Thường với 
người đời sinh 
lòng từ
Ngày đêm 
tự mình nương pháp ở.
Nguyện các 
thế giới thường an ổn
Phước trí 
vô biên lợi quần sinh
Bao nhiêu 
tội chướng thảy tiêu trừ
Xa lìa các 
khổ về viên tịch.
Hằng dùng 
giới hương xoa vóc sáng
Thường trì 
định phục để giúp thân
Hoa mầu 
bồ-đề khắp trang nghiêm
Tùy theo 
chỗ ở thường an lạc.”
Bài kệ 
Chúc 
tán
Hán ngữ 
được sử dụng chủ yếu trong nghi lễ tụng kinh của Phật giáo Bắc truyền, để tán 
thán các vị Hộ 
pháp (Trời, A-tu-la, Dạ-xoa, v.v.) thọ trì lời 
Phật 
dạy và giữ gìn Chánh 
pháp lâu dài. 
Hai bài kệ
trên 
đều tán thán, 
thỉnh mời các vị thiên, dạ-xoa, long vương, thiện thần, mong họ lắng nghe được
Chánh 
pháp mà thực hành và hộ trì 
Chánh 
pháp ấy được tồn tại lâu dài. Trong 
kinh Phật, 
chư thiên trong 
nhiều trường hợp cho thấy 
là một vị hộ pháp và thỉnh pháp. Trong kinh Thánh 
cầu
(Trường 
bộ), 
có đề cập việc 
Phạm thiên Sahampati 
đã 
cầu thỉnh
Đức 
Phật thuyết pháp sau khi 
Ngài chứng ngộ. 
Vì mong muốn 
chân lý 
được lưu truyền ở thế gian nên Sahamapati đã cầu thỉnh 
Đức 
Phật ba lần, 
và sau ba lần thỉnh, 
Ngài đã đồng ý.
Tuy nhiên, về 
mặt văn cú thì
có một 
số điểm dị biệt. Bài kệ 
Thỉnh 
chư thiên 
chỉ mời thỉnh các vị thiên, dạ-xoa, long vương ở các nơi như cõi trời, rừng núi 
đến để nghe pháp thoại từ kim ngôn của 
Đức 
Thế Tôn.
Còn 
bài kệ Chúc 
tán 
lại chứa đựng hàm nghĩa nhiều hơn: 
“Đến nghe pháp đó nên chí tâm/ Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn”. Ở đây 
sau khi thỉnh mời chư thiên, 
a-tu-la 
đến nghe pháp, còn khuyến hóa 
các vị ấy hãy chí thành, tinh tấn tu tập và hộ trì Phật pháp. 
Bài 
kệ chúc tán thể hiện tinh thần hộ pháp Bồ-tát: 
thường sinh 
từ tâm (常於人世起慈心)
và làm lợi 
ích cho chúng sinh 
( 
無邊福智益群生 
).
Với tinh 
thần Bồ-tát của 
Phật giáo Đại 
thừa, vai trò của vị hộ pháp Bồ-tát vượt 
qua 
ý nghĩa của 
chư thiên thông thường như thọ và hành Phật pháp. 
Chư thiên ở đây 
còn thể hiện sự dấn thân phụng sự, giúp đỡ chúng sinh 
bằng Tứ 
vô lượng tâm, 
bằng 
giới hương, định phục và trí tuệ bồ-đề. 
Ở đây 
Phật giáo 
Đại thừa xem vai trò của chư thiên 
là vai trò của 
một vị Bồ-tát; chư thiên thực hành hạnh Bồ-tát để hướng dẫn và giúp đỡ chúng sinh, 
bằng cách tự 
thân thực hành Chánh 
pháp, dùng lòng từ quán xét chúng sinh, 
luôn sống trong chánh niệm, từ đó tạo nên năng lượng từ bi ảnh hưởng đến chúng sinh, 
giúp cho thế giới an 
hòa, 
chúng sinh 
được an lạc. 
Những vấn đề liên quan đến chư thiên
Có nên cầu 
sinh thiên?
Theo Phật giáo, thiên 
giới là một trong các cõi mà con người sau khi chết sẽ tái sinh 
vào. Theo 
Kathavatthu,
quyển 
VIII, 
trái ngược với bốn cõi khổ địa ngục, súc sinh, 
ngạ quỷ, a-tu-la 
thì cõi người và cõi trời là cõi lành. Cõi trời có đầy đủ phước báu và sự an lạc 
hơn cõi người, nhưng bên cạnh đó cõi người có vui có khổ nên Phật dạy là nơi 
thuận lợi để tu tập chứng quả. 
Vì vậy Đức 
Phật thị hiện vào cõi người mà không thị hiện nơi cõi khác. Trong kinh 
Đức 
Phật dạy hàng cư sĩ về cảnh giới hướng thượng qua việc được cộng trú với chư 
thiên, sinh 
vào thiên giới. 
Kinh
Đại bát-niết-bàn, 
Trường 
bộ 
số 16, có đề cập đến số lượng các vị cư sĩ được sinh 
thiên: “Cư sĩ Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sinh 
(thiên giới), và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Cư sĩ 
Kālinga... cư sĩ Nikaṭa... cư sĩ Kaṭissabha... cư sĩ Tuṭṭha... cư sĩ 
Santuṭṭha... cư sĩ Bhadda... cư sĩ Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được 
hóa sinh 
(thiên giới), và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ānanda, 
hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nādikā, đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sinh 
(thiên giới) và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, 
hơn chín mươi cư sĩ mệnh chung tại Nādikā, diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu 
tham, sân si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt 
tận khổ đau. Hơn năm trăm cư sĩ, mệnh chung tại Nadika, diệt trừ ba kiết sử, 
chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác”.
Đức 
Phật thuyết pháp nhằm mục đích 
giúp 
chúng sinh 
vượt thoát mọi khổ đau của sinh tử, luân hồi. 
Tuy nhiên, 
có những chúng sinh 
vì sợ hãi cảnh giới địa ngục, chán sự khổ đau của kiếp súc sinh, 
và những điều bất toại ý của loài người nên mong muốn được sinh 
nơi cõi sung sướng, 
vì vậy Đức 
Phật chỉ bày cảnh giới an lạc của chư 
thiên, 
mà đó dường như là nơi hạnh phúc nhất, 
đáng 
mong cầu nhất 
của người dân xứ Ấn lúc bấy giờ. 
Nhưng cõi trời không 
phải là mục đích tối hậu của người Phật tử, cho nên sau khi sinh 
vào thiên giới, 
người ta phải 
tiếp tục tu 
tập để trừ diệt các kiết sử phiền não, thoát khỏi tam giới, 
chứng đắc Thánh 
quả.
Các vị Thánh hữu học sinh 
về đâu?
Khi 
tu tập đạt 
đến tam quả A-na-hàm, hành giả chắc chắn 
sẽ 
tiến đến quả 
vị giải thoát hoàn toàn 
là 
A-la-hán.
Tăng sĩ 
hay cư sĩ đều có thể chứng đệ tam quả A-na-hàm, nhưng hàng xuất gia với sự ly 
dục, ly bất thiện pháp một cách hoàn toàn nên sẽ chứng được quả vị A-la-hán. 
Riêng hàng cư sĩ, trong sử chỉ ghi chép có một người chứng được 
Thánh 
quả A-la-hán, đó 
là vua Tịnh Phạn 
(Suddhōdana), 
do chính Đức 
Phật trực tiếp độ trước lúc lâm chung và do túc duyên đã đủ. 
Với hành giả 
chứng đệ tam quả A-na-hàm 
thì 
được trú nơi 
cõi trời tầng trên cùng trong Đệ 
tứ
thiền
thiên, 
còn gọi là Tịnh 
cư
thiên 
(Śuddhāvāsa), và không thối 
đọa 
trở lại cõi nào nữa nên cũng được gọi là Bất hoàn thiên. Tuỳ theo lúc tu tập, 
phát triển chi thiền nào mạnh sẽ được tái sinh 
vào một trong năm cõi đó: 
nếu 
vị Tam quả 
có Tín 
căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Vô 
phiền
thiên; 
nếu vị Tam quả 
có Tấn căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Vô 
nhiệt
thiên; 
nếu vị Tam quả 
có Niệm căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Thiện 
kiến
thiên; 
nếu vị Tam quả 
có Ðịnh căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Thiện 
hiện
thiên; 
nếu vị Tam quả 
có Tuệ căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Sắc 
cứu
cánh
thiên. 
Vị Tam quả 
dù không đắc thiền 
cũng được sinh 
về cõi Sơ thiền, 
từ đây các vị A-na-hàm tu tập và chứng được đệ tứ quả A-la-hán; 
vị ấy 
không còn tái sinh, 
hoàn toàn giải thoát.
Có nên 
lễ bái chư thiên?
Theo 
Phật giáo Nam truyền, 
một người 
khi đã quy y 
hay xuất gia với 
Đấng
Vô 
thượng sư, thầy của trời người thì không 
nên 
lễ bái 
bất kỳ 
vị nào khác ngoài lễ bái 
Tam 
bảo. Chính vì các vị ấy còn trong luân hồi, còn tái sinh 
trong lục đạo, vẫn còn khổ đau phiền não nên không quy y và đảnh lễ các vị ấy. 
Cho nên các chùa theo hệ thống Nam truyền Phật giáo không hướng dẫn cư sĩ lễ bái 
chư thiên mà chỉ đảnh lễ 
Tam 
bảo.
Tuy nhiên,
trong 
Phật giáo 
Bắc truyền, 
tinh thần Bồ-tát được nêu cao, và vai trò hộ pháp 
của 
Bồ-tát mang ý 
nghĩa quan trọng. Trong kinh điển Bắc truyền, các vị hộ pháp không chỉ là chư 
thiên ở các cõi trời trong tam giới mà còn là các vị 
Đại 
Bồ-tát, như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Diệu Âm, Đắc Đại 
Thế, 
v.v. Chư vị này 
hóa 
hiện thành 
vô số 
hình tướng khác 
nhau 
để hoá độ chúng sinh, 
làm lợi ích chúng sinh 
và khiến Phật pháp trường tồn ở thế gian. Cho nên hình tượng chư thiên hộ pháp 
là vị vì đại nguyện xả thân để cứu độ chúng sinh, 
gìn giữ kho tàng 
giáo pháp của Đức 
Phật. Chính vì thế, các chùa Phật giáo Bắc truyền đều đảnh lễ vị hộ pháp chư 
thiên với đại nguyện Bồ-tát sâu rộng ấy.
 
 
	
 
	
		
	
		
	
		
	
		
		
		
		
		「佛說無常經」(CBETA 
		2022.Q1, T17, no. 801, p.745b7).