Mạn đàm về chữ NHÂN

chu nhan

Tác giả: Phan Chánh Dưỡng

Ngày xuân, đôi điều mạn đàm về ý nghĩa chữnhân”, qua đó người viết hy vọng đưa ra được một nội dung rèn luyện đạo đức nhân cho mỗi người trong hộingày nay dường như nhiều người đãquên lãng.

Xưa nay người ta thường nhận xét về một con người rằng ông ấy rất "nhân từ", thể hiện sự tôn kính, mến mộ, rằng đó một người sống lương thiện, thương người, cảm thông với nỗi khổ đau của người khác. "Nhân" phạm trù đạo đức của Nho gia "từ" tinh thần yêu thương mọi sinh linh của nhà Phật.

Chữ "nhân" của Nho gia theo nghĩa hẹp cụ thể được Khổng Tử diễn giải cho các học trò của mình được sách vở ghi lại như sau:

Nhân kìm chế mình để trở về với lễ (khi trả lời Nhan Hồi).

Nhân điều mình không muốn thì đừng áp đặt cho người khác, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (khi trả lời Trọng Cung).

Nhân yêu người (Khi trả lời Phàn Trì).

Khổng Tử nói " thể làm được năm điều dưới đây với thiên hạ nhân" đó : Cung kính, khoan dung, giữ chữ tín, chăm chỉ siêng năng, ra ơn cho mọi người. Ngoài ra, ông nói: Người nhân, muốn thành đạt thì cũng giúp cho người thành đạt.

Tất cả câu trả lời trên đều cụ thể cho từng người, nội dung hàm chứa tính giáo dục con người cụ thể. Chữ "nhân" theo nghĩa hẹp rất rộng, do đó người nhà Nho sau này giải thích chữ "nhân" của yêu thương, đức của tâm hay làm điều nhân giữ toàn tâm đức v.v...

 

Theo nghĩa rộng, chữ "nhân" được Khổng Tử, Mạnh Tử xem như tưởng cốt lõi của Nho giáo (giáođây không phải tôn giáo, giáo hóa con người). Do đó đạo đức của Nho giáo cũng thể gọi đạo của chữ nhân, khi nói "nhân giả nhị nhân giả" (chữ "nhân" chiết tự ra gồm chữ "nhân" "người" chữ "nhị" "hai"). Nghĩa : Nhân mối quan hệ giữa người người. Đây chính mọi quan hệ của con người trong hội. Nếu xử hài hòa các mối quan hệ trên thì hội sẽ trật tự, trên dưới hài hòa, con người được sống trong cảnh thái bình. Do đó nhân chính đạo làm người vậy.

Từ luận giải chữ "nhân" nghĩa rộng trên, chúng ta thấy mối quan hệ giữa người người đầu tiên phải được xử , phải được quy phạm đó con cái cha mẹ. Chúng ta ai cũng biết khi chào đời người gần gũi lo toan cho ta đấng sinh thành (cha mẹ). Do đó, theo Nho giáo đây mối quan hệ đặc biệt ưu tiên trong mọi mối quan hệ hội. Những quy phạm về mối quan hệ này Nho giáo gọi "đạo hiếu" (Theo Nho giáo, bách hạnh hiếu đầu, làm người phải đặt chữ hiếu lên trên hết). Tiếp theo mối quan hệ với anh em chữ "đệ", mối quan hệ với bạn chữ "nghĩa", mối quan hệ với vua chữ "trung" v.v... Từ đó triển khai ra các phạm trù đạo đức khác để tu thân, để rèn luyện đức tính con người: lễ, nghĩa, liêm, sỉ, trí, nhân (nghĩa hẹp), dũng v.v...

Thật ra những phạm trù đạo đức nêu trên (trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín v.v...) chỉ tên gọi của các mối quan hệ hay những thái độ, xử, quan điểm, lẽ sống của con người trong hội. Nhưng nội dung hàm chứa bên trong của tùy theo thời đại khác nhau lại ý nghĩa khác nhau. dụ chữ "hiếu" một phạm trù đạo đức nói lên mối quan hệ giữa con cái cha mẹ. Phạm trù này vĩnh viễn tồn tại trong mọi hội từ xưa đến nay cả mai sau, nhưng nội dung của chữ "hiếu" thì theo từng thời đại khác nhau những nội dung khác nhau. Nhưngày xưa hiếu luôn vâng lời cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ, phải sinh con cái để nối dõi tông đường. Khi cha mẹ qua đời, con phải tang bằng hình thức sống quanh mộ đói rét ba năm không được đi đâu, không được vui vẻ để tỏ nỗi khổ đau thương nhớ mẹ cha... Nhưng cũng nhà Nho cho rằng "đại hiếu làm rạng rỡ tông đường, kế đến không làm nhục gia tông, thứ ba mới đến nuôi nấng cha mẹ"... Cònngày nay, chúng ta phải nội dung phù hợp cho chữ "hiếu". Chữ "trung" cũng thế, không thể giữ nội dung trung với vua phải trung với nước, trung với dân v.v...

Ngày xuân, đôi điều mạn đàm về ý nghĩa chữ "nhân", qua đó người viết hy vọng đưa ra được một nội dung rèn luyện đạo đức nhân cho mỗi người trong hộingày nay dường như nhiều người đãquên lãng.

Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle