Hôm ấy, tôn giả
Mahā Kaccayāna y áo lấm đầy bụi đường từ phương Bắc xa xôi về Kỳ Viên tịnh xá
đảnh lễ đức Phật, dẫn theo một vị tỳ-khưu tên là Soreyya. Vị tỳ-khưu này trước
đây là một cậu công tử, sau bị hóa nữ, hóa nữ rồi lại hóa nam mới xin xuất gia
bên chân tôn giả Mahā Kaccayāna.
Câu chuyện thật
là hy hữu, thật là ly kỳ, chỉ riêng đức Phật và chư trưởng lão có thắng trí thì
biết rõ nhân, duyên và quả của nó; còn chư phàm tăng và cận sự nam nữ thì bàn
tán xôn xao. Đức Phật biết rõ hôm nay có nhân vật chính là Soreyya và người làm
chứng uy tín là tôn giả Mahā Kaccayāna nên ngài kể lại tuần tự câu chuyện đã xảy
ra.
Và sau đó đã
được được thuât lại.
“- Tại thị trấn
Soreyya (1), nằm về phía Bắc kinh thành Sāvatthi, là nơi mà tôn giả Mahā
Kaccayāna thường chọn làm trú xứ vì ở đây có những khu rừng cây cao bóng cả, yên
tĩnh, trong lành, khả ái, rất thích hợp cho đời sống độc cư. Thuở ấy, tôn giả
tuy tuổi đã trung niên nhưng trông vẫn còn rất trẻ vì nước da vàng sáng và tướng
mạo, dung sắc hơn người.
Vào mỗi buổi
sáng, tôn giả Mahā Kaccayāna khoác đại y, mang bát từ ngoại ô vào thị trấn
Soreyya để khất thực. Dung sắc tuấn tú như tỏa hào quang của ngài làm cho ai
cũng phải trầm trồ, nhìn ngắm. Trong đó, đặc biệt có một người, đấy là cậu công
tử con nhà triệu phú, mà mọi người ai cũng gọi là ‘ con trai của triệu phú
Soreyya’ (2), đã lập gia đình, hiện có một bà vợ xinh đẹp và hai cậu con trai
xinh xắn. Cũng sớm hôm ấy, công tử Soreyya cùng một người bạn thân, ngồi chung
một cỗ xe nhỏ, theo sau có rất đông thuộc hạ, gia nhân, dự định ra tắm ở một con
sông ở ngoại thành. Trên đường, bất chợt công tử Soreyya trông thấy tôn giả Mahā
Kaccayāna, cậu ta nhìn sững! Ôi! Người đâu mà đẹp lạ kỳ! Rồi một ý nghĩ tức khắc
khởi sanh: ‘Chà, phải chi vị sa-môn này là vợ của mình nhỉ? Nếu không như thế
thì ước chi bà vợ ở nhà của mình có được mỹ tướng và nước da vàng sáng như vị
sa-môn này nhỉ?’ Đi liền sau ý nghĩ ấy, công tử Soreyya cảm nghe có sự thay đổi
khác lạ, một sự chuyển hóa rần rần bên trong cơ thể, rất tế nhị không dám nói
với ai! Nói rõ là công tử Soreyya đã biến thành ‘tiểu thư’ Soreyya chỉ sau một
niệm phạm thượng, bất kính với vị thánh tăng. Hổ thẹn quá không biết giấu mặt
vào đâu, lợi dụng khi mọi người đang nhìn ngắm đó đây, cũng vừa khi cỗ xe đang
ngừng lại vì một chướng ngại trên đường, ‘tiểu thư’ Soreyya nghiêng người che
vùng ngực rồi nhanh chân lẻn trốn vào đám đông, không cho ai hay biết. Và rồi,
không dám trở về với gia đình, tiểu thư Soreyya đi mãi lên phương Bắc theo con
đường bộ hành của khách thương. Khi biết là mình đã đi một quãng khá xa, biết
không còn người quen nào trông thấy mình nữa, ‘tiểu thư’ Soreyya mới cảm thấy
yên tâm. Dừng chân nơi một bóng cây ven đường, tiểu thư tự nghĩ: ‘Thế là hết
rồi! Hết thật rồ! Ôi! Cả một cuộc đời nhung lụa đành phải quẳng lại sau lưng. Ai
ngờ, mình chỉ mới khởi một niệm nghiêng lệch, tà vạy, bất chánh mà đã bị trừng
phạt bằng cái thân nữ nhi liễu yếu đào tơ như thế này! Tương lai mờ mịt, đường
đời dặm thẳm, rồi không biết sẽ trôi dạt về đâu? Thôi, cũng đành! Không bao giờ
mình có đủ can đảm để trở lại mái nhà của cha của mẹ nữa! Không bao giờ mình có
đủ can đảm để trở về gặp lại người vợ yêu dấu cùng hai đứa con trai thương yêu
trông như hai tiểu thiên thần nữa! Không bao giờ mình có đủ can đảm để nhìn lại
bạn bè, người quen, bà con quyến thuộc nữa! Thôi, xin vĩnh biệt tất thảy mọi
người!’
Trong lúc cô
tiểu thư ruột rối như tơ vò, vừa lau nước mắt nước mũi dầm dề, đoạn tuyệt đời
sống cũ, vừa cặm cụi đi mãi lên phương Bắc, chấp nhận số phận mới – thì ở tại
thị trấn Soreyya, mọi người náo loạn, hớt hãi đi tìm chàng.
Nhắc lại chuyện trước. Sau khi cỗ xe vừa thoát ra khỏi chướng ngại, nhìn lại,
không ai còn thấy công tử Soreyya đâu! Người này nhìn người kia, người kia nhìn
người nọ. Người con trai bạn thân, ngồi bên cạnh, bị mọi người vây quang cật
vấn, cũng ấp úng không nói nên lời. Vì rõ ràng, công tử đang ngồi đây, bên cạnh
đây, nhưng một cái chớp mắt, không biết biến mất đi đâu?
Thất thểu về
nhà, mọi người ấp a ấp úng trình bày sự việc lạ lùng lên ông triệu phú. Nhìn vẻ
mặt ỉu xìu và thảm não của mọi người, ông triệu phú không nỡ la rầy, cấp tốc sai
từng toán gia nhân, phân chia đi tìm các nơi. Nhiều ngày cũng không tìm thấy,
gia đình ông triệu phú đành đi đến kết luận đau lòng: Có lẽ nó đã tự ý xuống tắm
ở một quãng sông nào đó, và đã bị chết chìm, chết trôi mất xác rồi! Họ buồn rầu
than khóc. Sau đó, gia đình sắm một mâm lễ vật trọng hậu, ra tại bờ sông ở ngoại
ô, mời các thầy bà-la-môn tư tế tổ chức một cuộc lễ để tế cho vong linh người đã
mất!
Trong thời gian
ấy thì vị tiểu thư của chúng ta, trên đường lên phương Bắc lại gặp một đoàn
khách thương từ một hướng nào đó xuất hiện trên lộ trình, vui mừng, cô bước theo
sau.
Vị trưởng đoàn
đi chiếc xe sau cùng, trông thấy một cô gái trẻ đẹp, quý phái, một thân môt mình
đang theo sau, bèn dừng lại, hỏi han :
- Cô muốn đi về
đâu, sao chỉ đi một mình vậy?
- Cảm ơn! Ông cứ
đi đi! Không sao đâu!
- Thế cô muốn đi
về đâu?
- Thưa ! Cô lắp
bắp… dạ cũng chưa biết! Có lẽ phải đến tận kinh tành Takkasilā!
- Trời đất! Ông
ta la lên – Cô có biết là xa chừng nào chăng? Hơn một trăm do tuần đấy! Cô tưởng
đi dạo mát chắc? Thế thì ăn uống, nghỉ ngơi như thế nào? Dường như cô chẳng có
hành trang, hành lý gì cả?
Nghe câu hỏi, cô
tiểu thư mới nhìn ra sự thật. Thò tay lột chiếc nhẫn quý, cô tiểu thư trao cho
ông trưởng đoàn khách thương, nói rằng :
- Vậy thì, với
chiếc nhẫn này, nhờ ông mở lòng cho tôi đi xe nhờ, cho ăn uống dọc đường, và đến
Takkasilā giúp luôn cho tôi một chỗ trọ.
Đồng ý cho cô
gái đi nhờ, nhưng trong tâm ông trưởng đoàn thương buôn lại nghĩ: ‘Chủ của ta,
công tử con nhà triệu phú Takkasilā từ lâu muốn kén chọn một mỹ nữ để lập gia
thất. Hay đây chính là nhân duyên trời định khi có một cô gái sắc nước hương
trời, không biết từ đâu xuất hiện kỳ lạ như thế này! Ồ, rồi ta sẽ tiến cử cho
tiểu chủ, chắc sẽ nhận được một món tiền trọng thường hậu hĩ đây!’
Và quả như thế
thật. Đến kinh thành Takkasilā, khi ông trưởng đoàn thương buôn dẫn cô gái đến
ngôi biệt thự, ra mắt con trai triệu phú, giới thiệu rằng đây là một bảo nữ
(itthīratana) khó kiếm ở trên đời – thì cậu tiểu chủ như chết mê, chết mệt về vẻ
đẹp, về sự trẻ trung và duyên dáng hiếm có của nàng.
Thế là họ làm
đám cưới, cô gái trở thành chánh thất của con trai triệu phú kinh thành
Takkasilā! Năm sau, cô gái sinh cho tiểu chủ một cậu con trai bụ bẫm; năm sau,
sinh thêm một cậu con trai kháu khỉnh nữa. Cuộc sống của họ thế là rất hạnh
phúc, không có chi phải phàn nàn. Riêng cô tiểu thư thì thường hay ngẫm suy,
chiêm nghiệm, tự vấn, tự đáp nhưng đều không có câu trả lời nào làm cho cô thoả
mãn. Chuyện là, trước đây, cô là con trai, sinh với bà vợ hai cậu con trai! Bây
giờ, lại thân nữ, mang nặng đẻ đau sinh thêm hai cậu con trai nữa. Khi là thân
nam, khi là thân nữ nhưng cảm xúc, khi nam vẫn rõ là nam, khi nữ vẫn rõ là nữ.
Không có một chút lẫn lộn nào ở đấy cả. Như khi làm cây cam thì sinh trái ngọt,
khi làm cây chanh thì sinh trái chua! Vậy thôi! Rồi, hai đứa con trước đây, hai
đứa con sau này, trước là tình thương của người cha, sau, lại là tình thương của
người mẹ! Chúng cũng không hề lẫn lộn! Ồ, thật là phức tạp xiết bao! Ông thợ
trời, ông thợ nghiệp, tạo ra chi cái hoàn cảnh oái ăm này?
Hôm kia, rảnh
rỗi ngồi trên ban công của tòa lâu đài, đang vui chơi nô giỡn với đứa con trai
thứ hai, bà chủ Soreyya nhìn xuống đường, chợt thấy một người quen. Đấy là ông
thanh niên bạn thân cùng ngồi trên cỗ xe đi tắm sông thuở nào. Ông ta đang trên
một cỗ xe, theo sau hàng chục cỗ xe khác, có lẽ là một chuyến buôn bán làm ăn
hay trao đổi hàng hóa giúp cho cha mẹ nàng tại kinh thành này. Ông ta có già hơn
một tí những có cái gì đó vẫn không thay đổi nên nhìn ra ngay. Bổi hổi, bồi hồi,
bà chủ nghe trái tim mình rộn ràng, lao xao. Kỷ niệm xưa ào ạt trở về như choáng
ngợp cả tâm tư. Sau khi trấn áp cảm xúc, bà chủ cho gia nhân theo dõi rồi mời
cho bằng được người đàn ông, bạn cũ, đến lâu đài với lý do là bàn công chuyện
làm ăn.
Sau khi dùng qua
loa cơm nước mà bà chủ đãi đằng có vẻ trọng hậu, người đàn ông dè dặt nói :
- Tôi chưa hiểu
lý do bữa ăn thịnh soạn này, xin bà chủ bàn tính chuyện làm ăn như thế nào?
Bà chủ mỉm cười,
nói câu khó hiểu :
- Nếu đây là bữa
ăn chào đón thân tình một người bạn cũ thì sao nào?
- Dạ, không dám!
Tôi không dám có được sự hân hạnh như thế!
Bà chủ như hướng
sang chuyện khác :
- Từ Soreyya đến
đây, chắc ông biết gia đình triệu phú Soreyya chứ?
- Thưa, phải
biết chứ! Vì tôi là người trong gia đình ấy! Rồi ông kể chuyện với giọng buồn
buồn – Từ khi cậu chủ đi tắm sông rồi mất, ông chủ xem tôi như người nhà và mọi
việc làm ăn buôn bán đó đây đều giao cho tôi cả. Gọi tôi là gia nhân của ông
triệu phú cũng được, mà gọi tôi là con trai nuôi của ông triệu phú cũng được,
thưa bà chủ!
Bà Soreyya lặng
người một chút, hỏi tiếp :
- Thế ông bà
triệu phú có còn mạnh khỏe không? Người vợ và hai cậu con trai của công tử
Soreyya giờ thế nào rồi?
Đưa mắt ngạc
nhiên nhìn bà chủ trẻ, người khách hỏi :
- Thưa, họ vẫn
còn khoẻ. Nhưng mà… nhưng mà… thế ra bà chủ quen biết với ông bà chủ của tôi à?
Lại còn biết công tử Soreyya, phu nhân và hai vị tiểu chủ à?
Đến giờ phút
này, bà chủ mới thổ lộ :
- Ôi, ông bạn
thân thuở xưa ơi! Tôi chính là Soreyya, công thử Soreyya cùng bạn đi tắm sông
ngày nào đây!
Người khách, bạn
cũ, tưởng tai mình nghe lầm, tưởng mắt mình trông lầm, cứ há hốc, trân trân
không nói được, không mở miệng được.
Cứ để cho bạn
mình ở trong đám mù sương, từ từ, chạm rãi, bà chủ kể lại chuyện xưa, khi trông
thấy vị sa-môn như thế nào, khởi lên ý niệm tà vạy như thế nào, hóa thành thân
nữ như thế nào, rồi quãng đời lên đến kinh thành Takkasilā như thế nào, kể lại
hết, không bỏ sót một chi tiết nào.
Nghe xong mà vẫn
chưa tin là thực, người khách hỏi :
-Vậy có thật,
hiện giờ, con trai ông triệu phú Takkasilā này là chồng của tiểu thư Soreyya ?
Bà chủ nhè nhẹ
gật đầu.
-Và hai cậu bé
này là con sau của tiểu thư Soreyya thật đó chứ?
Bà chủ lại nhè
nhẹ gật đầu một lượt nữa, không nói.
Người đàn ông
sau khi tự véo vào đùi, thấy đau thì biết không phải là mình đang nằm mơ! Nhìn
lại bà chủ, tuy trong vóc dáng nữ nhi nhưng cũng thấy phảng phất hình bóng của
công tử Soreyya thuở nào – mới tin chuyện này là thật. Bèn nói:
- Bạn thật là
tệ! Ai cũng tin cậu đã chết rồi. Bao nhiêu năm qua, lấy chồng, lại sống hạnh
phúc trong lâu đài này, cậu quên cha, quên mẹ, quên vợ, quên con, quên hết cả
bạn bè, thân bằng, quyến thuộc rồi!
- Hãy thông cảm
cho tôi! Tôi làm sao mà dám về đã chứ!
Hồi lâu, người
đàn ông mới gật đầu:
- Ờ, phải rồi!
Thật là không ai dám về cả!
Lát sau, như
nghĩ ra một điều, ông tiếp:
- Bạn nên tìm vị
sa-môn thuở xưa mà sám hối đi. Sau này, bỏ công điều tra, tìm hiểu, tôi biết vị
ấy là tôn giả Mahā Kaccayāna, nghe trong tăng đoàn bảo vị ấy là một bậc thánh
lậu tận, ai ai cũng kính ngưỡng, quý trọng, kể cả hàng vua chúa! Tôi cũng nghe
rằng, nói một lời bất kính, xúc phạm với bậc thánh là tội lỗi nặng lắm đó!
- Phải rồi, ta
nên làm thế! Bà Soreyya gật đầu – Vậy bạn có biết tôn giả ấy hiện giờ ở đâu
không ?
- Cũng may cho
bạn đó! Sớm nay, tôi thấy ngài dường như ở một khu rừng ở ngoại thành, cũng gần
đây thôi! Ôi! Tướng mạo của vị ấy vẫn tuấn mỹ với nước da vàng sáng không lẫn
lộn với ai được!
Thấy là việc hệ
trọng nên bà Soreyya tình thật kể lại chuyện xưa cho chồng nghe, có người đàn
ông bạn cũ làm chứng. Người chồng ban đầu bán tín bán nghi, sau phải tin là
thật.
Trong lúc ở gia
đình chuẩn bị cơm nước, vật thực đặt bát thì người đàn ông và người chồng đi đến
khu rừng, tìm thấy tôn giả Mahā Kaccayāna, và thưa thỉnh việc cúng dường ngày
mai tại tư gia, tức là toà lâu đài của ông triệu phú. Tôn giả im lặng nhận lời.
Sáng hôm sau,
sau khi đặt bát cúng dường với vật thực thượng vị cứng mềm đến cho tôn giả,
người chồng dẫn vợ mình đến quỳ lạy sát đất bên chân ngài vô cùng cung kính.
Người đàn ông, bạn cũ cũng quỳ lạy một bên rồi thưa rằng :
- Bạch ngài !
Xin ngài mở lòng hải hà, từ bi tha tội cho người bạn của con, là cô tiểu chủ
Soreyya đây !
Tôn giả Mahā
Kaccayāna ngạc nhiên:
- Là tội lỗi gì,
ta có biết đâu?
Người đàn ông,
bạn cũ, bèn kể lại chuyện xưa, nói đúng nguyên văn như ý nghĩ thuở nọ mà công tử
Soreyya khi trông thấy tướng hảo tuyệt mỹ, nước da vàng sáng của ngài đã thốt
lên lời phạm thượng, sau đó bị biến thành nữ ngay tức khắc như thế nào!
Tôn giả đã nghe
xong. Không những nghe xong mà ngài còn hướng tâm biết thêm những điều kỳ diệu
sau này nữa nên khởi năng lượng, uy lực tâm rồi nói rằng :
- Tốt rồi! Thế
là tốt rồi! Ta không những tha thứ tất thảy lỗi lầm mà còn phúc chúc cho cô
Soreyya đây được thắng duyên, thắng phúc nữa đó!
Nhiệm mầu thay,
câu nói vừa dứt, cô Soreyya thấy cơ thể mình rần rần chuyển hoá, giống như thuở
xưa, nhưng bây giờ lại biến thành thân nam, y như cũ.
Quỳ lạy với nước
mắt dâng tràn, cô Soreyya, bây giờ là ông Soreyya, thốt lên :
- Tri ân tôn
giả! Tri ân tôn giả!
Ông tiểu triệu
phú Takkasilā đăm đăm nhìn người vợ yêu dấu của mình, bây giờ đã biến thành một
người đàn ông, không biết nói sao, và cũng không biết trạng thái cảm xúc của
mình như thế nào nữa.
Lát sau, như
tỉnh trí lại, ông nói :
- Này… này… bạn!
Ông ấp úng tìm chữ xưng hô! Hai đứa trẻ kháu khỉnh này do tôi và… bạn… sanh ra!
Bạn sinh nhưng mà tôi dưỡng. Cả hai chúng ta đều có công ngang nhau. Chúng là
con chung của chúng ta. Vậy, bạn cứ tự nhiên sống ở đây, đừng ngại chi cả, để
chúng ta cùng chăm lo cho hai trẻ nên người!
Ông Soreyya đứng
lặng một hồi để cho cảm xúc lắng xuống, ngước nhìn tôn giả Mahā Kaccayāna – vẫn
an nhiên, tự tại, bất động – nhìn người đàn ông, bạn cũ, liếc nhìn hai đứa con
trai rồi nói với ông tiểu triệu phú rằng:
- Bạn à! Tôi đã
sống một kiếp nam nhân, sau đó là nữ nhân, bây giờ lại hoàn lại nam nhân như cũ.
Thế là hai lần thay đổi xác thân và lại là ba kiếp sống khác nhau. Kiếp sống
đầu, tôi là cha của hai đứa con trai. Kiếp kế tiếp, là mẹ của hai cậu con trai
khác nữa. Hiện tại đây, tôi đang sống kiếp thứ ba, tôi không muốn sống trở lại
hai kiếp sống trước đó nữa. Tôi đã chán ngán cả hai kiếp sống. Tôi đã có sự lựa
chọn rồi, hãy để cho tôi được tự do. Tôi sẽ đi theo tôn giả đây, và tôi sẽ sống
đời xuất gia. Hai trẻ được sống trong một gia đình phú túc như thế này, tôi
không có lý do gì để lo lắng cho chúng nữa. Bạn hãy làm trọn vẹn bổn phận mình.
Tôi không có gì phải hối tiếc. Cảm ơn với tất cả.
Nói thế xong, ông Soreyya âu yếm nhìn hai đứa con trai, bồng từng đứa một lên
tay, hôn lên má, lên đầu từng đứa rồi trao tận tay chúng cho chồng cũ, nói lời
từ biệt mọi người rồi theo chân tôn giả Mahā Kaccayāna.
Trở lại khu rừng
ngoại ô, tôn giả Mahā Kaccayāna tận tay cắt tóc và cho ông Soreyya xuất gia
sa-di rồi cả hai sống đời ta bà vô trú. Thời gian sau, thấy sa-di Soreyya tiến
bộ vượt bậc trong pháp học cũng như pháp hành, tôn giả lại cho ông thọ giới
tỳ-khưu. Tuy nhiên, cả hai thầy trò đi đâu cũng cảm thấy phiền hà, vì cái tin
nam biến nữ, nữ biến nam đã nhanh chóng lan truyền đi các nơi, đang trở thành
thông tin nóng hổi trên cửa miệng của bao người. Không những chư sư trong tăng
đoàn, mà là cả cận sự hai hàng, cả ngoại giáo, cả dân chúng khắp nơi nữa; hễ gặp
là cứ hỏi :
- Có phải đại
đức đã từng nam biến nữ, sau đó, nữ lại biến thành nam?
- Thưa, quả đúng
như vậy!
- Thế bốn đứa
con trai, hai đứa đầu đại đức là cha, hai đứa sau, đại đức là mẹ. Vậy đại đức
yêu thương hai đứa con nào hơn?
Đại đức cứ tình
thật trả lời:
- Dĩ nhiên, hai
đứa con do tôi mang nặng đẻ đau, tôi thương chúng hơn chứ!
Cứ phải trả lời
mãi, cứ lặp đi lặp lại mãi cái chuyện thương đứa con này, thương đứa con kia đến
phát ngán; lại phù phiếm, mất thì giờ vô ích, tỳ-khưu Soreyya tìm cách lánh xa
nơi phố chợ ồn ào. Thấy học trò mình có căn duyên vững, tôn giả hướng dẫn cho
Soreyya tập sống đời độc cư và tinh cần thiền quán. Hôm kia, vị đại đức này quán
sự sanh diệt của danh sắc, thấy rõ sự rỗng không, vô thường của cái được gọi là
tự ngã, ông đi vào lộ trình tâm thánh đạo, đắc A-la-hán quả cùng với tuệ phân
tích.
Tôn giả Mahā
Kaccayāna có mặt ngay bên cạnh.
- Ta mừng cho
ông đã hoàn thành xong bổn phận của sa-môn hạnh rồi.
Tỳ-khưu Soreyya
quỳ lạy dưới chân tôn giả:
- Đệ tử lại được
sinh ra trong thánh thai, kiếp thứ tư của đời người! Tri ân thầy vô hạn vậy.
- Hãy tri ân cái
tâm chánh hướng thiện của ông đấy!
- Đệ tử thấy rõ
rồi!
Từ đó, thầy trò
lại từ bỏ rừng cao, xuống rừng thấp… đi mãi… đi mãi về phương Nam. Trên đường,
lại gặp người này, người kia với câu hỏi cũ. Lúc này, tỳ-khưu Soreyya đã là một
bâc thánh lậu tận, cứ như thực mà trả lời, nên đại đức đáp:
- Cả bốn đứa con
trai, với chúng sanh vạn loài, tình thương của tôi đối với họ đều bình đẳng,
giống nhau, không hai, không khác!
Vì hai câu trả
lời khác nhau trên đường nên lúc tôn giả Mahā Kaccayāna và tỳ-khưu Soreyya đến
Kỳ Viên hầu Phật thì chư phàm tăng không chịu được, muốn vạch trần sự thật nên
họ đến quỳ bên chân ngài, thưa rằng :
- Tôn giả Mahā
Kaccayāna đã dẫn theo bên mình một tên nói dối! Ban đầu là vọng ngữ, sau lại trở
thành đại vọng ngữ… bạch đức Thế Tôn!
- Các ông cứ nói
đi!
- Trước thì ông
bảo, con mình mang nặng đẻ đau thì thương hơn. Nhưng sau đó lại nói, không
thương như vậy nữa, bây giờ tình thương ấy là đồng đẳng với tất cả chúng sanh.
Như thế, không những vị tỳ-khưu kia mang tội vọng ngữ, đại vọng ngữ, mà con
chứng tỏ mình khoe pháp bậc cao nhân, phạm tội bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn,
bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật mỉm
cười, giảng dạy rằng :
- Này chư
tỳ-khưu! Con trai của Như Lai lúc nào cũng nói thật, nói lên sự thât. Khi trả
lời thương đứa con do mình cưu mang, sinh nở là đúng sự thật. Sau lại bảo, tình
thương kia đều đồng đẳng giống nhau so với tất thảy chúng sanh, cũng đúng là sự
thật luôn!
Cho hay, khi tâm
xiêng xẹo, xấu quấy thì sẽ dẫn ta đi theo con đường xiêng xẹo, xấu quấy, đảo
điên, đau khổ ; nhưng khi tâm đã hướng chân, hướng chánh rồi thì quả báo, theo
đó, sẽ tốt đẹp, vẹn toàn, mỹ mãn. Việc ấy, chỉ tự ta, do ta làm, chứ cha mẹ, họ
hàng, quyến thuộc chẳng thể làm được cho ta đâu.
Giảng thế xong, đức Thế Tôn tóm tắt bằng câu kệ ngôn:
“- Điều mà quyến
thuộc mẹ cha
Chẳng thể làm
được cho ta, cho người
Nhưng khi tâm
chánh hướng rồi
Thành tựu tốt
đẹp vẹn mười, vẹn trăm” (3).
Trích: Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật
Nguyệt (Tập 6), Minh Đức Triều
Tâm Ảnh
________________________________________
Chú thích:
(1) Nằm ở khoảng
giữa Sāvatthi và Takkasilā (theo DhA.i.326).
(2) Seṭṭhiputta of Soreyya.
(3) Pháp cú 43,
Pāḷi: Na taṃ mātā pitā
kayirā, aññe vāpi ca ñātakā, sammā paṇihitaṃ cittaṃ, seyyaso naṃ tato kare (Kinh lời vàng).