Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng

Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng

 

Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng

Đại Trưởng lão Boowa Ñanasampanno (1913-2011)

Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên. Sau khi rời trường học, ngài đã tới chùa Bodhisomporn ở Udonthani, nơi ngài thọ giới Sāmanera theo Đại đức Chao Khun Dhammachedi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài được thọ giới Tỷ-kheo và ít lâu sau ra đi tìm vị thầy dạy thiền cho mình. Ngài được dẫn tới gặp ngài Ācariya Mun (Bhuridatta Thera) và Ācariya Mahā Boowa nói rằng ngay khi gặp Ācariya Mun, ngài lập tức biết rằng đó là vị thầy của mình. Ngài học và tu tập dưới sự hướng dẫn của Ācariya Mun trong 9 năm đến khi Ācariya Mun mất vào tuổi 80. Sau đó, Ācariya Mahā Boowa tự mình tu tập trên đồi và trong rừng núi Thái Lan. Tiếp đó, ngài đi khắp các vùng trên đất nước, gần như đã qua tất cả các tỉnh. Khi ngài được các nhà hảo tâm dâng cúng mảnh đất gần làng của ngài để xây một thiền viện, ngài không du hành nữa mà sống tại thiền viện đó[1].

* * *

Tâm ta giống như một đứa trẻ. Đứa trẻ không thể tự chăm sóc bản thân, do đó phải phụ thuộc vào cha mẹ, người giám hộ, y tá, nhiều người khác nữa. Nhưng đứa trẻ ít nhất có cha mẹ và người giám hộ để chăm sóc nó, để đảm bảo nó hiếm khi gặp phải tai họa. Trong khi đó, mặc dù tâm ta luôn nắm bắt và bám chấp vào nhiều thứ khác nhau, nhưng nó không tìm thấy bất kỳ sự bảo vệ và an toàn nào giống như vậy.

Tâm không thể dựa vào bản thân, do đó luôn thích bám víu vào mọi thứ. Nhưng đa phần, nó có xu hướng vươn tới những điều sai trái, những thứ gây tai hại cho nó. Lý do tâm thích tìm kiếm và chấp giữ mọi thứ là để nó có thể tìm được sự bảo vệ, sự an toàn và thoải mái cho nó. Tuy nhiên, những thứ tâm bám víu không đáng tin cậy, nên chúng luôn gây nguy hiểm cho tâm. ta còn trẻ hay đã trưởng thành, tâm ta cũng thường như thế.

Thay vì cố gắng dựa vào chính mình, chúng ta luôn đặt hy vọng vào những thứ khác, người khác. Chúng ta không thể tự đứng trên đôi chân của mình.  Đó là do tâm ta không đủ khôn ngoan để xét xem các đối tượng mà nó nắm giữ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Nó không biết tự chăm sóc bản thân, vì không có ai dạy nó. Không có ai để dạy nó cách nhận biết những gì là nguy hiểm, những gì là ích lợi, những gì có thể nắm giữ và những gì không nên chạm vào. Do đó, tâm tiếp tục nắm bắt bất cứ điều gì, dù tốt hay xấu, miễn là nó thích. Ngay cả khi không hài lòng, đặc tính của tâm vẫn là tiếp tục nắm bắt, bám víu. Tại sao tâm lại như thế?

Thông thường, ta sẽ nghĩ rằng không có gì đáng để bám chấp vào một tâm trạng hoặc một điều gì đó làm ta khó chịu. Tuy nhiên, tâm ta vẫn tiếp tục nắm giữ những điều như thế. Nó bám vào sân giận, vào ảo tưởng, vào dục ái, hận thù, căm ghét, vì nó đã can dự và bị cuốn hút vào đó. Chúng ta không bao giờ có thể nói tâm chỉ đơn giản biết đối tượng, vì nó luôn bị cuốn hút vào đối tượng. Đa phần, các điều đó không có gì tốt.

Tại sao tâm phải nắm giữ mọi thứ? Đó là bởi vì tâm bị cuốn hút mà không nhận ra hậu quả của sự bám víu đó. Dầu ta có muốn thoát khỏi tình trạng đó, ta cũng không thể, vì có một cái gì đó đủ mạnh để buộc tâm nắm bắt và bám chấp. Tâm sau đó bị cuốn vào cảm xúc, khiến ta trở nên mù mờ. Ở đây chúng ta đang nói về các đối tượng cảm xúc và tâm trạng.

Giờ nói về các đối tượng vật chất. Tâm sẽ nắm bắt và bám vào bất cứ đối tượng nào hiện diện. Không quan trọng là đối tượng đó có giá trị hay không như thế nào; tâm có thể và sẽ gắn bó. Sẽ không sai nếu ta gọi tâm là một chuyên gia “đeo bám”. Đó là do tâm không thể dựa vào bản thân, do đó phải phụ thuộc vào những thứ bên ngoài, cho đến khi cuối cùng thân chuyển qua các tình huống khác.  Tâm thậm chí có thể quên bản thân bằng cách đầu hàng sức mạnh của các đối tượng bên ngoài, mặc dù sự kiểm soát của chúng là vô căn cứ và dẫn dắt ta đi sai đường.

Đức Phật đã dạy rằng, "tự mình y chỉ mình"[2].  Do đó, hãy cố gắng chữa lành sự phụ thuộc của tâm, khuynh hướng luôn hy vọng có thể dựa vào những thứ khác. Hãy tách mình ra khỏi những đối tượng như vậy và quay vào bên trong để dựa nhiều hơn vào nguồn lực và khả năng của chính mình. Đừng phụ thuộc vào cha mẹ, bạn bè và người quá nhiều đến nỗi bạn quên mất chính mình. Đặc tính của nhân loại là liên tục tìm kiếm sự hỗ trợ ở người khác đã dần phát triển thành một thói quen cá nhân. Cả thế giới đều giống như thế, trong lãnh vực này, chúng ta thậm chí khó thể sánh bằng một số loại động vật. Đây là lý do tại sao Đức Phật dạy về sự tự lực cánh sinh.

Trong các lãnh vực thông thường, như làm việc và các trách nhiệm khác, chúng ta nên cố gắng tự lực hơn. Còn nói về Pháp - việc thực hành thiền định trong tâm - chúng ta cần phải được đào tạo đầy đủ dưới sự hướng dẫn của một v thầy để biết hướng đi đúng tiến tới. Tuy nhiên, việc thực sự thực hành là nghĩa vụ của mỗi người, để sự tự lực của ta đảm bảo có được khi ta tuân theo các nguyên tắc của Pháp. Thí dụ, Đức Phật đã dạy về việc vun trồng lòng tốt và giới hạnh thông qua bố thí, giới luật và thiền định. Các việc làm này giúp ta phát triển sự tự lực, vì tâm gắn chặt vào các đối tượng thiện lành này. Nhờ đó, ta sẽ được an bình và hạnh phúc trong cả kiếp hiện tại và tương lai, vì chúng là những đối tượng hữu ích và bắt nguồn từ các hành động thiện lành. Chúng tạo nên những vật thể tốt đẹp hoặc thực phẩm chất lượng cao cho tâm.

Chúng ta được dạy thiền, một bước cao hơn trong sự thực hành. Nỗ lực rèn luyện bản thân trong thiền là một cách để tự lực được nâng dần lên mức độ vững chắc và đáng tin cậy hơn. Chúng ta sử dụng một thiền ngữ như là phương tiện để hướng dẫn và kiểm soát tâm. Vì khi tâm chưa thể tự duy trì, chúng ta phải dựa vào thuật ngữ thiền này như một đối tượng để xoa dịu và mang lại sự an bình, tĩnh lặng. Việc chú tâm niệm “buddho buddho buddho..." là một thí dụ. Đó là một đối tượng để tâm bám vào, đó là cách làm chính xác, thích hợp để nương trú trong Pháp.

Khi ta bắt đầu thực hành, tâm vẫn còn chưa yên và bị phân tán, chưa thể trụ vào các nguyên tắc của Pháp để trở nên tự lực cánh sinh. Tâm phải phụ thuộc vào thiền ngữ, nương theo đó cho đến khi chúng hợp nhất với nhau, tạo thành sự tĩnh lặng. Khi tâm đã đi vào an tịnh, thì thiền ngữ này cũng không còn cần thiết. Đây là một bước tiến tới sự tự lực ở giai đoạn này, thiền ngữ có thể được buông, vì tâm đã ổn định. Đây là nền tảng và nơi nương trú cho tâm sáng suốt. Ngay với chỉ bấy nhiêu đó, ta cũng có được sự tự tại, bình an nơi tâm đã từng bồn chồn, phân tán, không thể tìm được bất kỳ sự bình yên nào. Đó là vì tâm thường không biết đến sự bình an mà chỉ biết rắc rối, bất ổn, đói khát, lo lắng và quan tâm đến những vấn đề hoàn toàn vô ích. Đa số các vấn đề này là những nghĩ suy, tưởng tượng của tâm, khiến tâm tự  đầu độc, và thiêu hủy bản thân - mà không liên can gì đến người khác.

Đức Phật đã khám phá ra cách thực hành đúng đắn và đạt được kết quả như Ngài mong muốn. Do đó, Đức Phật có thể giải thích về các nguyên nhân, hoặc cách thực hành, cùng với sự viên mãn và thành quả của chúng. Ngài dạy chúng ta rằng cách để phụ thuộc vào bản thân tốt nhất là thông qua thiền định và đy là con đường trực tiếp dẫn đến sự tự lực vững vàng. Đưa tâm vào an tịnh, ở bất kỳ mức độ nào, cũng mang lại sự tự tin ngày càng tăng - mà không cần phải hỏi bất cứ ai khác về nó.

Bạn sẽ tự biết từ nội tâm. Điều này được gọi là paccatam (tự chứng ngộ) hoặc sanditthiko (thấy rõ ràng). Kiến thức về cái tốt hay xấu, những gì cần khắc phục, loại bỏ hoặc phát triển, sẽ phát sinh trong tâm. Tự ta sẽ hiểu và chỉ cho chính mình, vì tâm ngày càng được thiết lập vững chắc hơn.

Mức độ định, một khi đạt được, đủ để tạo lập nền tảng cho tâm, một mái nhà nơi tâm có thể tìm được nơi trú ẩn an bình. Vào lúc chúng ta suy nghĩ quá nhiều đến nỗi ta cảm thấy yếu tim và mệt mỏi, ta nên quay vào bên trong và thiền quán. Sau đó, tâm có thể nghỉ ngơi và trút bỏ được tất cả những mối bận tâm của nó, tìm được sự bình an, tĩnh lặng. Đó sự quay vào bên trong để nương trú, để tìm một nơi nghỉ ngơi thoải mái và tự tại. Đây là một tầng nương trú của tâm.

Các bước tiếp theo, dù vẫn liên quan đến samadhi, tiến tới các khía cạnh tinh tế hơn của tâm. Mức độ tập trung nhất thời, cận định và định an chỉ đạt được cho thấy sự hoàn chỉnh của samadhi. Đây là đỉnh điểm trong sự chứng định,samadhi không thể tiến hơn thế nữa.

Một khi tâm đạt được một mức độ định tĩnh nào đó, tùy theo mức độ, tâm được tĩnh lặng và tinh tế. Tuy nhiên, nếu không phát triển chánh niệm và trí tuệ, nó sẽ chỉ ở mức đó, thiếu trí tuệ triệt để để nhổ tận gốc những ô nhiễm. Nếu so sánh các ô nhiễm với thân cây, thì dù chúng ta có cắt tỉa các nhánh, nếu thân cây vẫn chưa bị đốn thì nó vẫn có khả năng mọc lên các nhánh mới.

Hãy lắng nghe! Chỉ có trí tuệ mới có thể nhổ bật các ô nhiễm; không quan trọng chúng thô thiển, vừa tầm hay tinh tế, không ô nhiễm nào nằm ngoài phạm vi của trí tuệ. Đây là nguyên tắc chính yếu đảm bảo chất lượng và giá trị thực hành của chúng ta, đó là sự loại bỏ hoàn toàn các ô nhiễm khỏi tâm. Đó là cũng là cách thực hành mà Đức Phật và các vị Thánh đệ tử của Ngài đã đạt được trước chúng ta.

Do đó, samadhi và trí tuệ không thể tách rời nhau. Dầu tính cách và xu hướng của chúng ta là gì, samadhi luôn cần thiết như một nơi nghỉ ngơi yên tĩnh cho tâm. Tâm nghỉ ngơi khỏi công việc, bằng cách an tnh những suy nghĩ và bận tâm của nó trong samadhi. Ngay cả công việc trong cuộc sống đời thường cũng đòi hỏi ta có khoảng thời gian nghỉ ngơi và phục hồi - chỉ có làm mà không nghỉ ngơi là không thể được. Việc nghỉ ngơi chắc chắn có thể làm tiêu hao thời gian làm việc, nhưng cũng giống như ăn uống làm tiêu hao thực phẩm và tiền bạc, thân cần làm mới năng lượng để tiếp tục làm việc. Việc ngủ nghỉ có thể làm mất thời gian, nhưng cung cấp sức mạnh để thân hoàn thành nhiệm vụ và công việc của mình. Nếu không, nó sẽ không thể tiếp tục.

Việc sử dụng thời gian và thực phẩm để cung ứng và tái tạo sức mạnh cho thân chắc chắn không phải là lãng phí. Đúng hơn, chúng giống như nhiên liệu cho xe, không có chúng, xe không thể chuyển động.  Samadhi và trí tuệ cũng liên hệ tương tự như thế. Tâm cần thời gian để tĩnh lặng và lắng đọng trong samadhi, rồi sau khi đã nghỉ ngơi, nó có thể tiếp tục quán sát bằng cách sử dụng chánh niệm và trí tuệ phù hợp với khả năng của nó.

Từ trí tuệ này mô tả một cái gì đó rất tinh tế và bao trùm, để phù hợp với tính cách và xu hướng của người sử dụng. Bất kỳ phương cách nào mà ta sử dụng để quán xét nhằm nhổ tận gốc các ô nhiễm đều được gọi là chánh trí (right wisdom).

Không nhất thiết phải luôn dựa vào kinh sách để biết cách đối phó với các ô nhiễm; và để chúng trở thành "Pháp". Kinh sách được trích xuất từ tâm đó là Pháp, đã thực sự nhổ bật gốc các ô nhiễm và cho ta thấy rõ ràng các quả chứng. Chỉ sau đó chúng mới được viết ra thành kinh thư. Vì vậy, không có việc kinh sách có trước chân lý - là sự thực hành thực tế.

Đức Phật là người đầu tiên thực hành, vì vậy không có kinh sách nào để Ngài sử dụng. Khi Ngài dạy các đệ tử về Tứ diệu đế, Ngài cũng không viết chúng xuống trên các lá cọ. Ngài truyền Pháp trực tiếp bằng miệng. Sau đó chính các môn đệ của Ngài cũng tiếp truyền giáo lý theo cách đó. Họ lấy lời dạy ở đâu? - Từ thực tế trong tâm, mà họ đã thấu suốt qua kết quả của việc trực tiếp thực hành.

Chính vì lý do này mà các phương cách quy trình thực tập chánh niệm, trí tuệ phụ thuộc chủ yếu vào từng cá nhân. Mỗi người cần suy nghĩ, kiểm tra, quán xét và tìm ra các phương cách bằng cách sử dụng trí thông minh, khả năng của mình, tùy theo từng trường hợp. Do đó, không c phải luôn quay về để lấy thẩm quyền từ kinh sách với những câu như: "Tôi đã tự nghĩ ra điều này, do đó nó không thể đối trị ô nhiễm". Cách suy nghĩ này không phù hợp với các nguyên tắc của Pháp và không thể được gọi là chánh trí. Khi những điều chúng ta học được từ kinh sách không thể giúp ta thực hiện được việc loại bỏ ô nhiễm trong tâm, thì đó cũng không phải là chánh trí. Nó có thể là chánh trí trong kinh sách nhưng sai trong cách sử dụng.

Kinh sách chỉ giải thích Pháp ở một mức độ hạn chế. Đó thực sự không phải là tất cả. Ta có thể coi nó như một loại thuốc phổ thông, không phải thuốc đặc trị cho một loại bệnh cụ thể nào đó. Việc chúng ta tích hợp và thiết lập cách tiếp cận cụ thể có khả năng đối trị từng ô nhiễm được coi thuốc đặc trị. Đó là một phương thuốc nhằm dần dần nhổ tận gốc một loại ô nhiễm nào đó. Đây là lý do tại sao những người thực hành thành công với trí tuệ có Pháp, có chánh niệm và trí tuệ đi theo với họ dầu họ đang ở bất cứ nơi nào.

Thiền sư Acharn Mun từng nói rằng ông "lắng nghe Pháp cả ngày lẫn đêm".  Thử nghĩ về điều đó xem! Các giác quan của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân luôn tiếp xúc với mọi thứ. Nếu cái biết về sự tiếp xúc này không phát khởi trong tâm. Nếu kiến thức về sự tiếp xúc này không phát sinh ở nơi đang chờ đợi để tiếp nhận, thì nó còn phát khởi ở đâu được chứ? Cái gì tiếp nhận? Sự tiếp nhận của tâm cũng khuấy động chánh niệm và trí tuệ, là những thứ phải có mặt để kiểm tra sự tiếp xúc đang xảy ra với sự quán sát bài bản, đúng theo nhân quả. Tâm kiểm tra sự tiếp xúc và khi nó biết, nó có thể dần dần rút lui hoặc buông bỏ. Đó cái mà người ta nói là "lắng nghe Pháp cả ngày lẫn đêm", lắng nghe Pháp trong các nguyên tắc nguyên thủy của thiên nhiên. Ô nhiễm là nguyên tắc tự nhiên cùng với tâm. Pháp, với giới, định và tuệ, là những nguyên tắc tự nhiên trong tâm. Tất cả phụ thuộc vào cách chúng ta mang chúng ra để sử dụng trong sự quán xét của mình; tận dụng chúng tối đa theo khả năng chánh niệm và trí tuệ, đó là công cụ lý tưởng để sử dụng.

Thân. Hãy lắng nghe! Các yếu tố, uẩn, thân. Đức Phật đã có thân và tất cả các đệ tử của Ngài đều thân. giai đoạn, họ nắm giữ, bám chấp vào các uẩn, giống như chúng ta bây giờ. Các ô nhiễm của họ cũng giống như các ô nhiễm của chúng ta ngày nay. Nhưng bằng cách nắm giữ, chấp chứa, ta thiết lập các nhân duyên cho sự tích trữ ô nhiễm trong tâm.

Đức Phật và các vị Thánh đệ tử của Ngài  trước đây cũng có ô nhiễm - giống như chúng ta bây giờ - vậy tại sao họ có thể nhổ tận gốc chúng? Thân là như nhau, năm uẩn là như nhau, vậy mà các ngài có thể giải thoát khỏi chấp thủ, nhưng chúng ta thì không. Tại sao? Dường như ta không thể hiểu được làm thế nào mà các ngài có thể chứng đắc? Tại sao chúng ta không thể hiểu được? Tâm hiện diện, và chánh niệm, trí tuệ có thể được thiết lập trong từng khía cạnh, tùy theo bất kỳ góc độ nào mà ta muốn quán sát.

Tấm thân này, có mặt với chúng ta ngay tại đây, ngay lúc này, là cái có thể được biết, được hiểu. Khi chúng ta nói rằng tâm không thể phụ thuộc vào chính nó, chỉ có nghĩa là nó cần phụ thuộc vào thân.  Hơn nữa, nó không chỉ dựa vào các uẩn mà còn coi chúng như là cái ngã của mình. Xem kìa! Chúng ta đã phụ thuộc vào chúng, mà còn không xấu hổ khi xem chúng như là chính mình. Như thế là thế nào?  Dầu có chút hổ thẹn, ta vẫn phải dựa vào chúng vì ta còn thiếu hiểu biết, và không có bất cứ khả năng buông bỏ nào. Vì vậy, khá chính xác để nói rằng chúng ta không biết hổ thẹn và cần thừa nhận sự ngu muội của chúng ta. Từ đây, chúng ta phải cố gắng phát triển một ít thông minh để nhìn ra những điều này và buông bỏ chúng bằng sức mạnh của chính những nỗ lực của chúng ta.

thế, một lần cho tất cả, hãy xét tận ngọn nguồn. Các pháp tuân theo các nguyên tắc tự nhiên và duy trì bản thể của chúng là chúng, trong khi chúng ta nỗ lực hết mình để níu kéo chúng vào làm như chính ta.  Như thế điều đó sẽ gây ra các vấn đề, vì nó đi ngược lại chân lý của sự vật. Để phù hợp với các pháp, ta phải quán xét để thấy đúng như sự thật về chúng. Liên tục quán sát và tiếp tục quán xét cho đến khi ta có thể hiểu. Một khi đã hiểu, ta sẽ không phải ra lệnh cho tâm buông. Nó sẽ tự buông vì những điều này là độc hại, đem lại tai hại cho ta, vì chính sự bám chấp của ta. Chắc chắn là sự chấp giữ này không có lợi ích gì. Nếu có bất kỳ công đức hay lợi ích gì, Đức Phật đã khuyên ta nắm giữ chúng -  nhưng rồi một lời khuyên như thế cũng không cần thiết vì tâm đã tự biết phải làm gì. Chính sự chấp giữ đó mới thực sự độc hại.

Mặc dù những điều đó có thể nguy hiểm, nhưng chúng ta vẫn nắm bắt, tiếp cận chúng. Chúng ta nắm giữ chúng bằng các giả định rằng, tôi như thế này, tôi như thế kia; chúng là tôi; chúng là của tôi.  Rắc rối nảy sinh ngay tại đó với các giả định và khái niệm dựa trên ảo tưởng.

Các uẩn này, tự chúng, không có bất kỳ ý nghĩa nào. Chúng tồn tại, trong thực tế, giống như cây cối, núi đồi và những thứ tương tự. Chúng ta ý thức được các khía cạnh khác nhau của chúng, và điều này khiến cho chúng trở thành vấn đề và mối quan tâm của tâm. Một khi đã chết, chúng ta không thể nhận thức được chúng, điều đó có nghĩa là chính tâm đã làm xáo trộn mọi thứ lên.

Nếu ở đây, ta không có hạnh phúc; nếu ra đi, ta không có sự hài lòng; nếu nắm giữ, ta không được bình an. Và mọi thứ cứ tiếp diễn như thế. Thật phiền muộn và bực bội làm sao.

Tâm này tràn đầy ảo tưởng. Bất kể vấn đề gì nó tiếp cận, không có gì ngoài ảo tưởng và chấp trước đầy tai hại. Chúng ta tự nhủ rằng, không thể phụ thuộc vào tâm”, do đó ta bám vào điều này hay điều kia. Sự quán xét với trí tuệ được thực hiện để chúng ta có thể hiểu toàn bộ sự việc. Qua đó, ta có thể loại bỏ, duy trì, hay tháo gỡ và dần dần đạt được sự tự lực.

Chúng ta dành cho những thứ khác một sự quán sát đầy đủ để có thể hiểu chúng. Chúng ta nhìn nhà cửa, nam, nữ, động vật và vật chất; ta có thể biết chúng tốt hay xấu, có giá trị hay không, có đáng để giữ hay không - nhưng tại sao chúng ta không thể nhận ra điều này về thân? Chúng ta không chỉ không hiểu, mà còn yêu thương, bám chấp nó. Chúng ta sẽ không dám yêu hoặc nắm giữ những thứ vật chất bên ngoài theo cách đó, nhất là khi ta biết chúng không có gì tốt. Ta sẽ không màng tới chúng. Vậy mà với thân, ta chấp nhận tất cả - xấu hay tốt. Biết nói gì đây? Đây chính là nơi chúng ta thực sự thể hiện sự ngu ngốc của mình. Cặp mắt trên đầu chúng ta nhìn thấy thân như thế nào, tâm chúng ta biết, nhưng tất cả đều ở mức độ hời hợt của những người phàm phu. Do đó, nó tiếp tục, một cách bướng bỉnh, mà không có kiến thức thực sự, chỉ theo sự hiểu biết thông thường, thế tục. Đây thực sự là sự thiếu hiểu biết phổ biến, loại ảo tưởng thông thường trong vòng luẩn quẩn của kiến thức. Nó không phù hợp với chân lý, đó là lý do tại sao chúng ta phải tìm cách mang chân lý vào tâm; vì đó trí tuệ. Một khi đã có trí tuệ, chúng ta sẽ nhận ra sự thật - không còn bị che giấu - về bản thân chúng ta kết hợp trong thân vật lý này.

Hãy quán sát cẩn thận. Thân này cũng chẳng to lớn gì: chỉ dài khoảng một fathom[3] (do tuần), rộng khoảng một cubit[4]. Chúng ta có khả năng quán sát tất cả mặt ngoài của thân - chỉ mất một chút thời gian. Ở bên trong, hãy nhìn sâu với tâm quán xét chân thành, theo trạng thái và điều kiện hiện tại của nó đến chỗ tận cùng. Nó không thực sự đi đâu cả; nó không làm gì ngoài việc tiến tới sự tan rã và trở về với các yếu tố ban đầu của nó. Chỉ thế thôi. Hãy dùng trí tuệ để quán xét thâm sâu và và chân thật về chân lý này. Khi chân lý đi thẳng vào tâm một cách không thể chối cãi, sự dính chấp, gắn bó sẽ ngay lập tức rút lui. Nếu chưa thấy được chân lý, thì hãy quán sát với trí tuệ cho đến khi điều đó xảy ra.

Trí tuệ này không do ai ban phát. Cái nhìn sâu sắc vào thân - là cái ở ngay đây với chúng ta - là cái gì đó phát sinh từ sự quán sát, sự hiểu biết của riêng ta. Khi sự hiểu biết đó hoàn mãn, ta sẽ hoàn toàn buông bỏ. Chúng ta chính là người đang bám chấp, nên không ai khác có thể buông giùm ta, vì vậy hãy quán sát để giải phóng bản thân.

Chỉ cần nhìn thân như một cái gì đó để dựa vào và tuân thủ. Nếu, do sự ngu dốt và thiếu khôn ngoan của bạn, bạn xem nó như là cái ngã của bạn hoặc thuộc về bạn, nó sẽ gây ra cho bạn vô vàn đau khổ. Điều này đặc biệt đúng ở lúc cuối cùng khi các uẩn tan rã. Những lo lắng và hối tiếc, yêu thương và dính chấp của bạn, tất cả sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát. Còn hơn cả “cánh diều đang bay cao bị đứt dây, bạn sẽ quay cuồng cùng gió. Không ai biết bạn sẽ đi về đâu. Tất cả mọi thứ sẽ như thế, dù thực tế là thân không đáng được quý trọng và nuối tiếc như vậy. Thân được tạo thành hoàn toàn từ những thứ đã sẵn mầm rã tan.

Bạn sẽ kiên trì chống lại sự thật mãi chăng? Khi đến thời điểm các uẩn phải rã tan, không thể tránh né điều đó. Đó là sự thật, là chân lý. Bạn có cố chống lại điều đó bằng cách vẫn yêu thương, trân quý chúng, không muốn chúng lụn bại, rã tan được không? Phủ nhận sự thật này, bạn chỉ tự chuốc thêm khổ vào thân, cho đến khi cuối cùng cũng không có lối thoát. Tất nhiên, trừ khi bạn nhanh chóng tận dụng thời điểm hiện tại này để phát tán nó qua trí tuệ. Nếu bạn thành công trong việc này thì bạn sẽ nhận được lợi ích to lớn đó - hạnh phúc tối thượng của Niết-bàn. Tuy nhiên, nếu bạn chọn chống lại Pháp, thì cũng rất có thể tại thời điểm đó bạn sẽ mất khả năng và trí thông minh của mình.

Trí tuệ là hệ thống vũ khí hiện đại bạn nên sử dụng trong việc quán xét sự thật. Giải phóng và buông bỏ [tất cả các chấp trước] tùy theo chân lý, ngay cả hiện nay khi bạn vẫn đang sống ở đây hay tại thời điểm ra đi. Lúc trí tuệ đã đánh giá rõ ràng tình hình hiện tại và tương lai - thì không có gì có thể đem lại cho bạn vấn đề.

Niềm vui và nỗi đau vẫn còn hiện diện vì các uẩn vẫn còn hoạt động. Các pháp phát sinh trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Chính tâm thừa nhận và chịu trách nhiệm. Nó biết nhưng không dính chấp. Bạn nên hiểu rằng có hai cách mà tâm có thể biết - hoặc biết-trong-sự phù hợp-với chân lý hoặc bằng cách biết--nắm giữ.

Cảm xúc thuộc bất kỳ loại hay cấp độ nào có mặt với các uẩn, nhưng không phải trong tâm thanh tịnh. Các vị A-la-hán không phải chịu đựng cảm xúc của cả các uẩn và tâm, trong khi số phận chúng ta là phải nhận lấy hợp đồng xây dựng chu kỳ tái sinh. Khi tình trạng của các uẩn khác nhau nghiêng lệch, chúng ta nghiêng theo; và khi chúng lật đổ, ta cũng chổng gọng. Đó là vì sự phụ thuộc của chúng ta vào đó. Chúng khiến nghiêng, ta nghiêng; khiến ngã, ta cũng ngã. Khi chúng bảo ta đứng yên một chỗ, ta có thể đứng yên tới một mức độ nhất định nào đó, nhưng chúng lại không sẵn sàng đứng yên. Ngay cả khi chúng vẫn tồn tại và chưa chạm đến cái chết, chúng ta vẫn bức xúc về cái chết hơn chúng.

Do đó, chúng ta cần phải quán sát rõ ràng để thấy với trí tuệ rằng các thứ này chỉ là một cái ta phải tuân theo. Ngày tháng... giờ phút... thời gian kiên trì bào mòn tất cả mọi thứ. Nếu chúng ta nhìn thấy được cách thời gian và thiên nhiên ăn mòn, gặm nhấm những thứ này, ta sẽ thấy nó giống như con chó gặm nhấm xương thịt. Không có gì khác biệt cả. Chú chó sẽ tiếp tục gặm nhấm, cắn xé cho đến khi không còn gì để răng của nó cắm vào. Như thế, các uẩn cũng bị ăn mòn đi theo cách đó. Chúng tiếp tục tan rã từng chút từng chút một, cho đến khi chúng đạt đến sự thật cuối cùng.

Cho dù chúng ta đang ngồi, đứng, đi, nằm hay ngủ ngon lành, thời gian vẫn tiếp tục ăn mòn, gặm nhấm. Tan rã, tiêu hao và suy giảm. Việc gặm nhấm, ăn mòn không dừng dứt. Vậy bạn nghĩ rằng bạn có thể chống đối, ngăn chặn chúng? Không, không có gì có thể ngăn cản chuyện này. Đó là một quá trình [không thể tránh] của tự nhiên - một cái gì đó quá to lớn. Giả định của chúng ta là sai, và những gì sai không thể so với những gì đúng và chân thực. Sự tan rã là một quá trình khá chính xác; nó tuân theo nguyên tắc tự nhiên. Chống lại bản chất thiết yếu là sai lầm của tâm, sẽ  phải kết thúc trong đau khổ.

Hãy bắt đầu ngay bây giờ với sự quán sát toàn diện về những điều này. Khi cuối cùng cũng đến thời gian phải ra đi, sẽ không có sự run sợ sự quán xét và hiểu biết của ta đã hoàn tất và ta biết rằng đây là cách không thể tránh khỏi của mọi thứ. Không còn cách nào khác.

Vì vậy, hãy để mọi thứ đi theo con đường riêng của chúng. Bất kể điều gì xảy ra, hãy để nó xảy ra mà không cố gắng chống lại chân lý. Cảm giác đau đớn đốt cháy thân và nó dần dần trở nên giòn và quá chin”. Nó dần dần suy giảm cho đến khi nó vỡ vụn, tan rã. Tuy nhiên, tâm được bao bọc bởi chánh niệm và trí tuệ sẽ không bị tan vỡ, sẽ không bị dập tắt và sẽ không bám trụ. Nó là chính nó, tự lực cánh sinh, không cần phải phụ thuộc vào bất cứ điều gì - và vô cùng tự tại.

Ngay đây là nơi chúng ta thấy được tầm quan trọng của sự quán sát, giá trị của nó đối với tâm. Đây là lý do tại sao các bậc hiền triết - trước tiên là Đức Phật - chính yếu đã dạy chánh niệm và trí tuệ cho chúng ta, để ta có thể lôi kéo tâm ra khỏi đống lửa và giải phóng nó khỏi nguy hiểm.

Giáo lý của tất cả các vị Phật đều được dạy theo cùng một cách. Đó là do các nguyên tắc tự nhiên giống như nhau, và các ô nhiễm cũng luôn giống nhau. Không có Đức Phật nào sẽ dạy khác đi hoặc lệch ra khỏi điều này. Sự thực hành luôn là để loại bỏ các ô nhiễm - dù lớn hay nhỏ - khỏi tâm. Điều này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của Pháp, mà tất cả các vị đều dạy. Nếu chúng ta đi chệch khỏi những nguyên tắc này, ô nhiễm sẽ cười vào mặt chúng ta.

Do đó, hãy quán xét. Dù rộng hay hẹp thế nào - toàn bộ vũ trụ và các nguyên tố vật chất. Có gì ở đó mà tâm có thể dựa vào hay ẩn náu? Hãy lưu ý đến thuật ngữ "nơi ẩn náu" này. Ngay cả những điều có liên quan mật thiết đến bản thân chúng ta cũng không an toàn. Ngoài thân ra, ta khó hy vọng có thể tìm được nơi ẩn náu bất cứ đâu.

Ngay cả những điều liên quan chặt chẽ với chúng ta cũng không đáng tin cậy. Nếu chúng ta không thể nhận ra mối đe dọa mà chúng gây ra, thì chúng ta có thể nhìn thấy ở đâu khác? Ta phải nhận ra được mối nguy hiểm ngay tại đây, và tâm phải lánh xa hiểm họa này. Sự hoàn mãn sau đó phát sinh một cách đầy đủ được gọi là:

Attā hi attano nātho: Tự ta là người cứu độ ta.

Tâm không phụ thuộc vào bất cứ điều gì. "Giới", "định" hay "tuệ" trong giai đoạn cuối cùng của việc giải phóng là những thuật ngữ không còn cần thiết nữa. Tại sao phải nương tựa vào các dụng cụ đã làm xong công việc loại bỏ các ô nhiễm của chúng. Các dụng cụ được đặt xuống tùy điều kiện. Thí dụ, ta cầm dao lên để cắt rau, gọt củ, nhưng phải đặt sang một bên khi chúng ta ngồi xuống bàn ăn. Vì không ai ăn dao.

Giới, định và tuệ là những dụng cụ dùng để đối phó với các ô nhiễm. Khi các ô nhiễm được loại bỏ, tất cả các vấn đề của tâm cũng biến mất. Khi cuộc sống vẫn đang tiếp diễn thì các dụng cụ này có thể được sử dụng vì lợi ích cho mọi người, phù hợp với các khái niệm thông thường. Tuy nhiên, không cần thiết phải có chúng để sửa chữa các ô nhiễm lần nữa. Nhất là vào thời khắc cuối cùng khi sự qua đi của các yếu tố và uẩn sẽ diễn ra, chắc chắn không còn cần bất cứ điều gì. Chánh niệm và trí tuệ không còn là một vấn đề và thân không khiến ta phải quan tâm, vì tất cả mọi vấn đề trong tâm đã kết thúc. Không có gì có thể khiến ta quan tâm. Vì thế, bạn nên tiến tới việc kết thúc các vấn đề này, vì đó là nơi tất cả mọi lo lắng của bạn sẽ chấm dứt.

Nếu bạn vẫn có vấn đề - thì đó là một vấn đề. Chúng ta nghe về những vấn đề liên quan đến đau khổ và khó khăn, liên quan đến sinh, lão, bệnh tật và cái chết. Chúng bám theo sau những gì ta gọi là "vấn đề".

Với sự kết thúc của các vấn đề, tất cả mọi quan tâm chấm dứt. Hãy quán sát thấu hiểu. Tất cả những điều đã đề cập ở đây nằm trong thân tâm của bạn. Hãy phân tích chúng bằng sức mạnh của chánh niệm và trí tuệ. Quán xét ngày này qua ngày khác. Đừng tự mãn. Không phải chánh niệm và trí tuệ là cái gì đó có thể được đưa vào để nấu, để ăn, nhưng chúng có thể được đưa vào để đối phó với các ô nhiễm. Sử dụng chúng theo cách này, ta sẽ có thể loại bỏ uế nhiễm cả ngày dài. Tuy nhiên, sự tự mãn sẽ chỉ khiến bạn chìm xuống - như thế thì chắc chắn không có gì lợi ích cả. Kết quả cuối cùng là khi bạn bị kẹt cứng trong góc tường, bạn còn không biết trí tuệ của mình đã biến đi đâu. Bạn chỉ còn cách đập đầu vào tường. Nhưng làm vậy chắc chắn không lợi ích gì!

Trái lại, bạn phải nỗ lực, sử dụng bất kỳ phương tiện, cách thức nào, để tìm được lối ra. Hãy cố gắng hết sức mình. Đạt đến mức tận cùng của khả năng (hiện tại) của chúng ta. Đó là tất cả những gì ta có thể làm được. Chúng ta chấp nhận bất cứ trạng thái hay cấp độ nào mà ta đạt tới - vì ta chỉ có thể đạt đến mức đó. Nhưng nếu như sự nỗ lực chưa vượt quá khả năng, chúng ta phải cố gắng đi xa hơn, bằng mọi cách phải vượt qua.

Đắm chìm trong vòng sinh tử cũng giống như khi một con tàu bị lật. Mọi thứ trên tàu đều chìm xuống. Con tàu, hàng hóa đều chìm cùng với người chết. Chúng ta chìm xuống cùng với các yếu tố và uẩn thông qua ảo tưởng và si mê. Thân chìm xuống theo bản chất của nó, nhưng tâm chìm thì chính sự ngu ngốc của nó. Bạn có chấp nhận điều đó không? Không có gì tốt đẹp về sự thất bại này. Tâm chìm sâu dưới đáy vì sức ép của ảo tưởng; và điều đó chắc chắn là không tốt. Thực ra, đó một thảm họa không được trông chờ. Chính vì lý do này mà chúng ta phải chắc chắn rằng mình đang liên tục tìm kiếm lối thoát ra.

Quán sát để tìm thấy sự thật. Đặc biệt là sự thật về những cảm giác đau đớn, khó chịu của thân và tâm. Điều này rất quan trọng. Tâm nắm bắt quá nhiều đến nỗi nó trở thành một bệnh tâm thần bên cạnh những thứ khác. Nhận ra rằng năm uẩn không phải là tôi: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chỉ là những điều kiện đặc biệt phụ thuộc lẫn nhau trong các yếu tố và uẩn. Tâm là một cái gì đó tách biệt. Bằng cách quán chiếu, phân tích thành công, thông qua chánh niệm và trí tuệ, bạn sẽ đạt được sự an toàn, thoát khỏi mọi hiểm nguy.

Cái chết - hãy để nó đi theo con đường của nó. Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều chết, cái chết đã được cài sẵn trong chúng. Vậy thì làm sao bạn có thể mong chúng bền bỉ, thường hằng - khi thời điểm chúng phải chết đến, thì chúng phải chết. Không gì có thể cản trở, hạn chế điều này. Ngay cả các vị A-la-hán cũng phải chết; tuy nhiên, đối với họ, có sự khác biệt là họ ra đi không chút quan tâm, lo lắng. Ngược lại, chúng ta lo lắng ngay cả trước khi cái chết đến - hoảng loạn, bám víu. Khi cái chết đến, sự lo lắng, bám chấp càng tăng lên, chồng chất thành một mối đe dọa lớn hơn núi. Hãy cẩn thận để điều đó không xảy ra với bạn. Hãy chắc chắn rằng bạn vượt qua những lo lắng như vậy.

Như luôn nói, hãy chuẩn bị và thiết lập bản thân với kusalā dhammā (thiện pháp). Đây là kusalā” của chúng ta.

Bất cứ khi nào akusalā (bất thiện) có mặt, hãy xua đuổi nó với sự khéo léo, đó là chánh niệm và trí tuệ của riêng bạn.

Đây là những gì được gọi là tụng kusalā cho bản thân”, và đó là điều bạn phải tự làm. Dựa vào người khác để tìm cho bạn các nhà sư để tụng "kusalā dhammā" sau khi bạn chết sẽ gây ra rất nhiều phiền toái. Là điều chúng ta không muốn xảy ra.

"Kusalā dhammā": chuẩn bị cho mình đầy đủ sự tinh xảo, trọn vẹn và bao gồm tất cả, và sẽ không còn cần bất cứ thứ gì khác. Như một “vị chứng thánh”, bạn sẽ chết mà không có sự hỗn loạn và bối rối.

Lúc này chỉ có vậy.  Xin tạm biệt.

Diệu Liên Lý Thu Linh trích dịch theo bản tiếng Anh To The Last Breath do Tỷ-kheo Ariyesako biên tập.


 

[1]  Dẫn theo lời giới thiệu trong Tuệ phát triển định, dịch giã Minh Hạnh, Diệu Hạnh, Thư viện Hoa Sen.

 

[2] Kinh Pháp cú, phẩm Tự ngã, kệ 160, HT.Thích Minh Châu dịch:  Tự mình y chỉ mình/ Nào có y chỉ khác.

 

[3] Bằng 1,82m.

[4] Đơn vị đo chiều dài cổ xưa, bằng 45,72cm.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle