Khúc dạo đầu

khuc dao dau

Pháp Hiền cư sỹ

 

 

Buổi sáng sau khi chúng tôi đến Dharamsala, Ấn Độ, nơi định cư của nhiều người Tây Tạng sống lưu vong, tôi men theo lối mòn lồi lõm tìm đến Ngôi Làng Trẻ Em Tây Tạng (Tibetan Childrens Village). Nép mình dưới rặng Hy-mã-lạp sơn, trại mồ côi các trường học của ngôi làng trẻ em tỵ nạn tạo thành một thế giới thu nhỏ, chứa khoảng 2.500 em, kể cả các thầy giáo, những người chăm sóc đang cố bảo tồn nét văn hóa cổ xưa của mình khi mà nó xứng đáng thành là bộ phận của nền văn minh đương đại. Gần đó trú xứ tu viện của đức Dalai Lama XIV. Suốt trong tuần tới, từ ngày 27 đến ngày 31 tháng mười 1997, năm nhà khoa học khác cùng tôi sẽ được diện kiến ngài về những mối quan tâm đan xen lẫn nhau, tức triết học Phật giáo và vật lý hiện đại.

 

 

Tại Làng Trẻ Em y, trong một sảnh đường lộ-thiên chỉ được che chắn rất ít cho chúng tôi khỏi sương mù của tiết tháng mười lạnh giá, nơi đây một dàn nhạc cổ điển Tây Tạng đang chơi. Các ca công được trang phục lộng lẫy trình diễn trong cung cách như thể một kết hợp kỳ lạ giữa thần thoại cũ xưa nhạc kịch Á châu cổ điển, kèm theo đó sự hăm hở của anh hề lúc nào cũng mang đến cho mọi người nụ cười thoải mái và cười vang với đám đông. Bất ngờ hơn, vở diễn được thông báo dừng lại trong khán giả tiếng xầm xì. Rất nhiều người từ các toà nhà gần đó tủa ra đông nghẹt. Đức Dalai Lama bước xuống cầu thang dài, đi theo chỉ với một vài tăng sĩ đang hoài công che ngài khỏi ướt bởi cơn mưa phùn, ngài chắp tay cúi chào mọi người quanh mình, rồi ngài nắm lấy những bàn tay chìa ra hai bên ngài và trên khuôn mặt rạng ngời của ngài vẫn nụ cười truyền cảm nổi tiếng toàn thế giới. Thay vì tuần tới, ngài sẽ cùng chúng tôi thảo luận về vật lượng tử và vũ trụ học, thế sáng nay ngài đã tại Làng Trẻ Em này để khuyến tấn và chúc phúc cho từng người một.

 

 

Năm ngày sau sẽ những buổi gặp gỡ thân mật của chúng tôi với đức Dalai Lama. Toàn bộ chúng tôi đã đồng tề tựu các khoa học gia, triết gia, tu thân hữu trên bao lơn của một tiểu thất trong khu vực của ngài. Không gian vẫn xám xịt và mưa. Khi chúng tôi trò chuyện, thì bầu trời bỗng tạnh ráo và một cầu vồng đầy đặn, rực rỡ uốn cong (tạo khoảng cách) giữa dãy núi với chúng tôi.

 

 

Hai sự kiện này một dàn nhạc Tây Tạng một cầu vồng là cặp giá đỡ cho một tuyển tập đầy ấn tượng về những cuộc hội thoại các đồng sự của tôi tôi được vinh dự trao đổi cùng đức Dalai Lama về vật mới trụ học. Tập sách này ghi lại những cuộc hội thảo ấy.

 

 

Nền vật mới trụ học của thế kỷ thứ 20 nền học thuật thật hoàn chỉnh bằng các hiểu biết về vũ trụ của chúng ta, và gần như thách thức mọi khái niệm khoa học cổ điển chúng ta đã được thừa hưởng từ thế kỷ thứ 19. Những con người phi thường về khoa học như Galileo và Newton, Copernicus, Kepler, Faraday và Maxwell đã cho ta biết quan điểm đó. Phương pháp truy cứu cũng như cách nhận thức của các tiền nhân ấy về vũ trụ hoàn toàn khác với phương pháp được các triết gia thuộc phái tự nhiên cổ và trung đại thực hiện. Nền khoa học mới này được khẳng định bằng thực nghiệm, cách quan sát có hệ thống, và các mô thức có lý thuyết trong một kiểu dáng hoàn toàn khác lạ. Sự thành công của khoa học trong phong cách như vậy thật đáng kinh ngạc, chẳng hạn, nó được định chuẩn vừa bằng năng lực dự ngôn (predictive power), vừa bằng các ứng dụng kỹ thuật của mình. Thuyết về động lực học của Newton đã được ứng dụng cho hiện tượng phức tạp của bầu trời và giải thích sự chuyển động của những hành tinh và các ngôi sao theo những quy luật đồng nhất từ đó sự chuyển động trên mặt đất được kéo theo, một cái coi như bất khả đối với những triết gia Hy Lạp cổ đại. Kế đến là Quang học được kết hợp với khoa học mới về điện từ học, cung cấp cho ta quan điểm sâu sắc về thuyết trường (field-theoretic) giữa các lực điện với từ tính và, bằng phép loại suy thậm chí bằng luật hấp dẫn nữa. Sự thành công của khoa học vật này y theo cái cách từ cú dứt điểm của Lord Kelvin ở cuối thế kỷ thứ 19, người giữa các nhà khoa học khác đã tuyên bố rằng, vũ trụ trong tính toàn thể của nó đã từng được thăm dò, chỉ còn lại một số chi tiết không đáng kể thôi. Ông đủ bình thản để nhận ra hai “đám mây” ở chân trời mà ta đang hướng tới là chưa thể làm nên viễn tưởng lạc quan: sự thất bại của khí ether qua công trình nghiên cứu của Michelson Morley sự thất bại của thuyết khi dự báo về quang phổ phóng ra từ vật chất (nung) nhiệt độ cao. Đám mây thứ nhất làm nên thuyết tương đối, đám mây thứ nhì là cơ học lượng tử. Chẳng những Lord Kelvin là bậc tiên tri, mà ông còn ngạo mạn nữa.

 

 

Suốt trong ba thế kỷ dựng nên nền vật trụ học cổ điển, đặc tính học duy vật của thuyết vật đã chi phối cách suy nghĩ của Tây phương, thậm chí chiếm lĩnh luôn cả những khu vực khác, ngoài Tây phương. Càng ngày triết học càng bị khoa học chế ngự bởi những tư tưởng gia như, Descartes, Kant, Locke. Các nền khoa học sôi động luôn vạch ra con đường phát triển tương tự với những vật phát triển và luôn khát khao vươn đến độ chính xác cũng chẳng kém gì. Di truyền học, thuyết tiến hóa, khoa sinh học tế bào đã thay cho vai trò lịch sử tự nhiên sinh học hữu cơ. Theo truyền thống, thì bản thân của tâm thức (tư duy mind) được hiểu như sự biểu đạt của tâm linh hay tinh thần, dần dần cũng thành bộ phận của trụ giới. Vào buổi ban đầu của thế kỷ thứ 20, nền vật của thế kỷ thứ 17 đã hoàn toàn chinh phục được những cận xứ của khoa học lĩnh vực của tâm thức vẫn đang bị xâm chiếm. Phong trào khoa học tiêu biểu duy nhất là cơ giới (a single mechanistic paradigm) và siêu hình học duy vật do giới tiếp hợp, vốn chi phối cách suy nghĩ của Tây phương.

 

 

Bằng sự mở đầu của thế kỷ thứ 20, các thuyết học lượng tử và thuyết tương đối hẳn là đã đặt ra vô số yêu cầu trong khái niệm của ta về trụ. Chúng ta vẫn cố bám lấy những hàm ẩn toàn diện của chúng. Chúng thách thức những lý giải cơ giới đơn thuần về vật chất trụ đã được ta thừa hưởng từ những thế kỷ trước, ta tái xét chúng bằng các chứng để những hình ảnh như thế không còn bị lặp lại. Thêm vào đó, cả thuyết lượng tử lẫn thuyết tương đối vốn mang lại cho người quan sát sự đột phá mới. Để đánh giá triệt để ý nghĩa của những phát triển này quả khó khăn. Quá trình phân nhánh từ những khám phá của thế kỷ thứ 20 dành cho vật trụ thật phi thường, đến độ nó làm ta thay đổi rất nhiều quan niệm về không gian và thời gian, làm thay đổi bản chất tối hậu của vật chất và thay đổi cả những quan niệm của ta về trụ tiến hóa nữa. Chúng cũng đã khởi đầu ảnh hưởng lên những diễn ngôn (tranh luận) triết học trên các lộ trình đầy ý nghĩa.

 

 

Trong khi Tây phương, những hàm ẩn triết học về vật mới vẫn còn đang được chọn lọc, vậy thì ta sẽ chọn chủ đề nào là tối yếu để cùng thảo luận với nhân vật tiêu biểu hàng đầu này của Phật giáo? Bởi lẽ, bậc đạo của nhân dân Tây Tạng, đức Dalai Lama, là bậc đã được rèn luyện sâu sắc về những tính phức tạp nhất của triết học Phật giáo Tây Tạng, nhận thức luận và siêu hình học. Chúng ta hoàn toàn mong được bày tỏ cùng ngài về cuộc cách mạng tư tưởng mà khoa vật lý đương đại đang cổ cùng ngài phân tích những hàm ẩn triết học của nó. Cho dù Phật giáo ít có kinh nghiệm về các lý thuyết đặc biệt liên quan đến vật lý hiện đại, thế nhưng, bản chất cơ bản của thực thể và bản chất của tâm thức đã được tôn giáo này truy cứu từ lâu. Tôn giáo này cũng đã duy sâu sắc về kinh nghiệm, suy luận quan hệ, nhân quả và vai trò cá biệt của các ý niệm cùng những kiến giải trong cách suy nghĩ của chúng ta.


 

Thậm chí, lịch sử lâu dài của vũ trụ vật lý đã là chủ đề quán chiếu của Phật giáo, đưa tới những quan điểm siêu việt, hoàn toàn giống như những gì đang được các nhà vũ trụ học ngày hôm nay tiếp tục nâng cao.

 

 

Khi những cuộc hội thoại này được trình y, thì độc giả sẽ có cơ hội hiếm hoi tham khảo nền vật lý mới và vũ trụ cùng với một trong những nhà tư tưởng triết học uyên thâm nhất của Á châu. Ta chợt nhận ra rằng, đức Dalai Lama không được đào tạo bản về vật lý, thế nhưng ngài một nhà nghiên cứu thông tuệ, thường thì ngài biết trước được những ý kiến (thắc mắc) quan trọng tiếp đến của chúng tôi và đặt ra những câu hỏi hết sức sâu sắc. Mỗi sáng, qua những câu hỏi liên tục của ngài, một trong các nhà khoa học – ba nhà vật lý và hai nhà thiên văn học – hướng dẫn ngài đi vào những khám phá khoa học đã làm nên địa hạt học lượng tử, thuyết tương đối vũ trụ học hiện đại. Vào mỗi buổi chiều, các cuộc thảo luận của chúng tôi được thoải mái hơn, chúng tôi rút ra chất liệu quan trọng của chúng từ những hàm ẩn triết học thành hệ thống của thể tài buổi sáng vừa qua. Trong khi cùng nhau trao đổi, chúng tôi được nhiều sự đóng góp của Giáo Đỗ Duy Minh, triết gia Harvard và nhà sử học Á châu, sự am tường Đông cũng như Tây của ông, nhất trên phương diện triết học, đã vạch ra con đường và khiến cho nhiều quan điểm được rọi sáng.

 

 

Ngoài thời gian năm ngày gặp nhau, cuộc thảo luận sẽ còn đáng lưu ý hơn nữa, khi chúng tôi cố lãnh hội bao quát thêm nhiều những nét nghịch của ngành vật mới trụ. Đức Dalai Lama người tham gia suốt quá trình thảo luận của chúng tôi. Thực vậy, vào giờ cuối, Anton Zeilinger, nhà vật lý người Áo đã tán dương đức Dalai Lama xứng đáng một nhà hợp tác khoa học thiên tài và có nhã ý mời ngài viếng thăm phòng thí nghiệm Innstruck của mình. Vào tháng 6, năm 1998, Anton tôi đã hân hạnh được ngài viếng thăm suốt ba ngày ở Innstruck, nơi Anton thể trình bày với ngài những thí nghiệm thật sự nhằm bảo vệ các thành quả cốt lõi của thuyết lượng tử và ở đây, chúng tôi đã tiếp tục thảo luận thăm dò về các nền tảng cơ học lượng tử. Song, những cuộc thảo luận ấy, phải đợi đến một cuốn sách khác vậy.

 

 

Đức Dalai Lama không ch là người lãnh đạo thế tục của chánh quyền y Tạng u vong, mà ngài n là bậc đạo sư của Phật giáo đất nước y Tạng. Người ta có th hỏi một cách chính đáng là trên nền tảng kiện toàn o mà những nhà khoa học có th có cuộc tương thoại với c nhà dẫn đạo n giáo? m lại, tôn giáo được đặc tính a bằng niềm tin, nhất là đối với những giáo thuyết, n khoa học thì n lực khám phá những quy luật tự nhiên bằng s quan sát, cách thí nghiệm cẩn trọng và lý chứng. Tuy nhiên, với chúng ta, tnhững nhận t rộng mcủa đức Dalai Lama, rõ ràng đó là một ký thác u xa v s tri nhận xác đáng, dẫn sinh t trong cốt tu của triết học Phật giáo.

 

 

DALAI LAMA: Nói chung, trong Phật giáo, nhất Phật giáo Đại thừa, khi bắt đầu tiếp cận nó, thì thái độ trước tiên của bạn, chính sự hoài nghi. Thậm chí, chính đức Phật đã dạy rằng, sự hoài nghi là một thái độ tốt nhất mà ta cần lưu giữ. Thái độ này sẽ tự nhiên bật thành những câu hỏi. Những câu hỏi sẽ dẫn đến các câu trả lời minh bạch hoặc cách giải ràng. Do vậy,


 

tưởng Phật giáo Đại thừa y trên lý giải nhiều hơn, thay y trên niềm tin. Theo tôi, thái độ này rất hữu ích, càng hữu ích hơn trong khi giao tiếp với những nhà khoa học.

 

 

Khi dạy về đạo đức, Pháp Phật thường nói đến các tà kiến (wrong view) do vọng tưởng phát sinh. hai loại kiến: một là Pháp chấp, tức là thổi phồng cái gì có thật, gán cho sự vật một tự tính nào đó bản thân tính. Hai đoạn ngôn về cái gì thật có, tức là Pháp không, Ngã hữu. Như vậy, cả hai học thuyết tuyệt đối và hư vô luận này, được Phật giáo cho là tà kiến. Thế thì, ngay cả sự diễn giải về đạo đức, một hiểu biết chính xác hay chánh kiến về thực tại phải nhất thiết được nhấn mạnh. Do vậy, đối với Phật pháp những phát kiến khoa học là rất hữu ích.

 

 

Một số quan điểm Phật giáo còn cung cấp cho các nhà khoa học một phương pháp quan sát mới, như tôi đã phát hiện qua kinh nghiệm của mình. Một số nhà khoa học rất quan tâm hay thích thú nghiên cứu nhiều về những lý giải Phật giáo (luận tạng) theo lĩnh vực riêng của họ. Do vậy, theo tôi, các cuộc tiếp xúc của mình với các nhà khoa học rất lợi lạc. Khi cho rằng khoa học là một ngành học thuật (discipline: sự tôi luyện có quy luật) còn Phật giáo một hệ thống tưởng (chớ không là niềm tin thuần túy), thế thì cả hai đều gánh vác trách nhiệm cơ bản là tính rộng mở và hoài nghi ngay từ đầu. Như vậy, trong các buổi thảo luận của chúng ta, mọi thành viên tham dự đều thừa nhận rằng, sự cởi mở toàn diện và tự do trao đổi các ý tưởng mà không bị bất cứ nguyên tắc nào áp đặt, thì đấy mới là điều quan trọng.


 

Chúng ta bắt đầu bằng tính nghiêm túc đích thực từ những nhận xét như thế trong cuộc thảo luận của chúng ta. Không có chủ đề nào bị giới hạn hay cấm chế (off-limit). Những câu hỏi gai góc sẽ được nêu ra từ cả hai phía. Đối với mọi sai biệt giữa khoa học Tây phương Phật giáo, thì việc chứng minh bằng phân tích cẩn thận bằng vai trò cốt lõi của thí nghiệm, là sự cam kết mà ta được đức Dalai Lama khẳng định nhiều lần. Toàn thể chúng ta đều gánh lấy trách nhiệm trên cùng một phương hướng: tìm thấy sự thật. Đối với Phật giáo, vô minh được hiểu như là nguyên nhân căn bản hay chánh nhân của khổ đau, bởi vì tà kiến về ngã và pháp, đương nhiên sẽ dẫn đến các chấp thủ và phiền não (detructive emotion – cảm giác tiêu cực). Do vậy, diệt khổ là chân lý đầu tiên mà Phật giáo nhắm đến. Các ngành khoa học cũng truy tìm sự thật, không chỉ cứu cánh trong tự thân còn khiến cho bệnh chứng và khổ đau được giảm trừ qua cách ứng dụng kỹ thuật đạo đức. Bằng cách mang lại những thành tựu đại của khoa học Tây phương cùng với tư duy thiện xảo và những quán chiếu triết học của Tây Tạng, chúng ta kỳ vọng sẽ làm toả ra một chút ánh sáng nào đó trong các vấn đề rối rắm của vật hiện đại và trong một chừng mực chúng đã lẩn tránh sự hiểu biết của mình. Chúng ta không mong vào những giải pháp tối hậu, đúng hơn là ta tìm kiếm những cách tiếp cận mới với những bài toán cũ xưa. Trước buổi khai mạc, Giáo Đỗ Duy Minh đã trực tiếp nói đến những kỳ vọng về thực trạng của các ngành ấy:

 

 

Do những phát triển mới trong ngành vật lý, cho nên những thành tựu đại của nền khoa học Tây phương vẫn chưa được minh định. Chúng ta trong giai đoạn việc nhận thức mới


 

sẽ phải hình thành từ sự nỗ lực cộng tác nghiên cứu khoa học rộng rãi nhiều hơn. Sự nỗ lực cộng tác ấy thể kéo theo nhiều người từ mọi ngành khoa học khác nhau và các truyền thống khác nhau, tuy nhiên có điều rõ ràng là tác nhân thúc đẩy phát triển vẫn là khoa học.

 

 

Đúng như Đỗ Duy Minh hình dung, quanh bàn hội thảo ở Dharamsala đã có được sự đa dạng của những ngành và các truyền thống.

 

Từ viện Institute of Innsbruck, Anton Zeilinger đến đây cùng với nhóm nghiên cứu trứ danh của mình, đây nhóm đã thăm dò các nền tảng học lượng tử. Khi một Giáo Fulbright của Viện Innsbruck, tôi đã đánh giá cao đội ngũ duy nhất này mà đặc tính của họ chính là những thí nghiệm sắc bén và các thảo luận triết học tinh vi. Là người giành được nhiều giải thưởng quốc tế về nghiên cứu vật lý, công việc của Anton mở rộng sang ba lĩnh vực có liên quan đến các nền tảng cơ học lượng tử: sự giao thoa của các neutron, sự giao thoa của các


nguyên tử (bao gồm phân tử C ), sự nghiên cứu về photon.


Text Box: 60

 

Nhóm của ông là nhóm đầu tiên nghiên cứu sự viễn truyền động từ trạng thái lượng tử của một proton, đây là nhóm đầu tiên phát triển lý thuyết và các thí nghiệm dành cho các kiểm tra mới về tính phi định xứ của lượng tử. Những thành phần của (tính phi định xứ) này sinh hoạt trong trường hiển xuất của thông tin lượng tử khi xử lý với sự báo trước của nó về những điện toán lượng tử phép giải lượng tử. Bây giờ Viện University of Vienna, Anton tiếp tục việc nghiên cứu của mình với cách một Giáo Vật thực nghiệm. Vào ngày đầu tiên, Anton khai mạc hội nghị bằng sự giới thiệu về những vấn đề chủ yếu dựa trên thực nghiệm lượng tử.

 

 

David Finkelstein, đến từ Viện Công nghệ Georgia (Georgia Institute of Technology), bổ sung cho chương trình nghị sự bằng sự uyên bác đầy ấn tượng của ông về thuyết tương đối, lý thuyết lượng tử lôgích lượng tử. nhà biên tập suốt 25 năm cho tạp chí International Journal of Theoretical Physics, tác giả của nhiều chương thuyết trọng yếu đầu sách Quantum Relativity: Synthesis of the Ideas of Enistein and Heisenberg, David đã đem đến bàn hội nghị một duy thuyết hoàn toàn đáng trân trọng. Tính hài hước chuẩn mực của ông được đánh giá cao, nhất là, lĩnh vực được ông trình bày ở ngày thứ nhì trong tuần lễ nghị sự của chúng ta một lĩnh vực quá khó.

 

 

Với tư cách là nhà tổ chức hội nghị sao cho có khoa học, tôi nhận lãnh hai trách nhiệm, vừa giải trình vừa khiến cho cuộc đối thoại được thuận lợi. Sở trường của tôi là nguyên tử thí nghiệm và vật lý quang phổ, trước tiên, tôi là nghiên cứu sinh của chương trình hậu Tiến Joint Institute for Laboratory Astrophysics sau đó Amherst College. Từ năm 1980, tôi càng đặt trọng tâm nhiều hơn vào vai trò thí nghiệm để những vấn đề nan giải có tính khái niệm trong cơ học lượng tử được chứng minh. Từ đầu thập kỷ 1980, lĩnh vực này chỉ gây chú ý một ít người, nhưng sau đó đã phát triển rộng lớn, thu hút nhiều nhóm thực hiện những cuộc thí nghiệm khắp thế giới. Tôi đã nghiên cứu những tính chất tinh xảo trong phép đo được gọi là sự tẩy xóa lượng tử (quantum eraser) khi làm việc ở École Normale Supérieure, viện Max Planck Institute


 

for Quantum Optics tại Munich, Đức, tôi đã cộng tác với John Archibald Wheeler thực hiện công trình thí nghiệm chọn–trễ nổi tiếng của ông. Song song với công việc của mình trong lĩnh vực vật lý, tôi lại kiên quyết đeo đuổi tuyến nghiên cứu thứ hai trong các phạm vi lịch sử và triết học vật lý, bao hàm sự liên hệ khoa học với những ảnh hưởng đạo đức và tâm linh của chúng ta. Điều này đã đúc kết thành tác phẩm Cách hiểu ánh sáng: Lịch sử nằm trong Ánh Sáng Tâm Thức (Catching the Light: The Entwined History of Light and Mind). Mặc dù bản thân không phải là một Phật tử, nhưng tôi hân thưởng được tính thận trọng và uyên thâm trong hệ thống triết học đó, và bởi nền tôn giáo ấy đã y trên “khoa học nội tâm” một cách trí tuệ, thế nên, tôi đã trông đợi là có dịp may thảo luận vật lý trong bối cảnh rộng hơn của nền triết học đó.

 

 

Vào hai ngày cuối, nhà thiên văn học George Greenstein từ Amherst College Piet Hut từ Princeton Institute for Advanced Study đến, sẽ dẫn ta vào cách tư duy tối yếu và các tranh luận đang diễn ra trong lĩnh vực trụ học. George tôi đã cùng cộng tác nghiên cứu khoa học nhiều năm Viện Đại học Amherst, ông một nhà giáo, nhà văn nhà nghiên cứu được đây tôn trọng hơn hết. Từ khi tốt nghiệp Đại học Yale và Stanford, ông đặt trọng tâm việc nghiên cứu vào các chòm sao neutron, những punxa (pulsar) và Big Bang (vụ nổ lớn), thế nhưng niềm yêu thích thật sự của ông, chính phương pháp giảng dạy theo kiểu khoa mục nghiên cứu (seminar-style teaching). Trong cộng đồng thiên văn học, ông nhân vật đứng đầu. Danh tác Ngôi sao đóng băng (Frozen Star) của ông, một tác phẩm chuyên nghiên cứu về những lỗ đen,


 

những chòm sao neutron, và những thiên thể nạ dòng (exotic astronomical object – thiên thể dị lai), và tác phẩm này đã giành được hai giải thưởng quan trọng xếp vào loại tác phẩm khoa học. Giải thích vũ trụ cho giới ngoài chuyên môn, thì đó là “nghề” (chuyên ngành) của Geoge, ta cần đến điều đó, nếu như ta phải trình bày khúc chiết cho đức Dalai Lama những ý niệm về không–thời gian cong trong thuyết tương đối rộng và sự dãn nở ban sơ của vũ trụ này.

 

 

Piet Hut một Giáo nắm giữ danh hiệu độc tôn cả về khoa vật lý thiên thể lẫn các công trình nghiên cứu đa diện của Institute for Advanced Studies Princeton, đây một trong những viện nghiên cứu có uy tín nhất của Hoa Kỳ. Nhờ vào công trình bước ngoặt của ông, đó công trình nghiên cứu các hạt trung hòa tử của trụ, cũng như lập hình động lực học của hàng triệu ngôi sao vốn làm nên các cầu tụ, Piet đã sớm tự thể hiện mình như vậy. Ông và các đồng nghiệp đã thiết kế và sử dụng điện toán có công suất nhanh nhất thế giới để lập mô hình những thiên va chạm với nhau. Trong vài năm sau y, Piet đã không ngừng mở rộng lĩnh vực nghiên cứu và trứ tác, kể cả triết học, nhất được ảnh hưởng khi tiếp cận hiện tượng luận của Edmund Husserl. Vào ngày cuối của cuộc hội thảo, Piet sẽ trình bày cả hai khía cạnh từ công việc của mình với bàn hội nghị: trụ triết học. Sau khi diễn ngôn về cách tiến hóa của những ngôi sao, ông đã tìm kiếm một phương hướng nhằm đem lại các giá trị quy mô của kinh nghiệm thành phúc đáp khoa học của ta về thực tại. Theo cách y, chúng ta phải thực sự đương đầu với mối quan hệ phức tạp giữa tôn giáo và khoa học.

 


 

Đỗ Duy Minh sinh Côn Minh, Trung Hoa học Đài Loan. Ông Giáo môn Lịch sử Triết học Trung Hoa Harvard và đồng thời Viện trưởng Viện Yengching Institute. Từ lâu đức Dalai Lama đã muốn những hội thoại như vậy với người đại diện Trung Hoa. Đỗ Duy Minh đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, đó bằng cách giúp chúng tôi nối liền sự khác biệt giữa các nền văn hóa tri thức và tâm linh Đông – y.

 

 

Sau hết, tôi cần một ít nhận xét của mình với các thành viên tham dự đây, về hai thông dịch viên của chúng ta, đó là Thupten Jinpa B. Alan Wallace. Tuy đức Dalai Lama hoàn toàn thông thạo tiếng Anh, thế nhưng, khi nói đến nội dung khoa học triết học “hóc búa”, thì ngài thường yêu cầu chuyển dịch cả hai nội dung đó thành tiếng Tây Tạng từ Tây Tạng thành tiếng Anh. Tuy khó, nhưng Jinpa và Alan vẫn những người được đào tạo toàn diện về Phật giáo Tây Tạng (cả hai đã là tăng sĩ nhiều năm), và học thành thạo triết Tây. Alan cùng tôi nghiên cứu vật ở Amherst College, sau đó ông đã hoàn tất học hàm Tiến Nghiên cứu tôn giáo học tại Stanford. Còn Thupten Jinpa thì hoàn thành học vị Geshe (tương đương Tiến sĩ Thần học) trước khi đến Cambridge University, tốt nghiệp Cử nhân (bằng danh dự triết học) và Tiến tôn giáo học. Thêm nữa, ngoài việc dịch thuật ra, Alan và Jinpa thường hoạt động với tư cách là nhà cố vấn cho đức Dalai Lama khi ngài trình bày những câu trả lời của mình theo thể tài khoa học. Chúng ta nên xem hai nhà học giả này, thật sự là những ngưòi tham dự chánh thức, tạo nên một nhóm hội nghị luân lưu chín người.


 

Hiển nhiên, những thảo luận của chúng ta đã trở thành niềm tôn trọng phi thường qua các quan điểm của từng cá nhân đưa đến bầu không khí tuyệt vời trong yêu cầu hợp tác. Ngồi chung bàn các đại biểu đến từ mọi lĩnh vực khoa học vật Phật giáo Tây Tạng của thế kỷ thứ 20, trong đó đức Dalai Lama. Mọi việc đều đã được sẵn sàng cho một cuộc đối thoại hy hữu. Tất cả vẫn còn phải bắt đầu. Không có bất cứ quyển sách nào đánh giá hết được tầm cỡ nhân bản sinh động của cuộc hội luận như vậy, thế nhưng, lẽ giữa những dòng chữ này người ta có thể cảm thấu tình cảm sâu đậm và bối rối, tính hóm hỉnh và lòng hiếu khách, diễn ra suốt thời gian gặp gỡ của chúng tôi. Trạng thái đó hoàn toàn khác với dàn hợp xướng tôi nhận ra khi mới đến. Quang cảnh đan xen giữa cổ kính hiện đại, lồng vào đó chư Tăng khoác Tăng bào truyền thống và các thiết bị thí nghiệm đặt trên bàn trước mặt chúng tôi. Tiếng cười lòng nhiệt thành, cuộc thảo luận sôi nổi luân phiên lấp kín gian phòng. Trong chỗ dành cho thính giả trẻ em, dân làng, 50 khách mời tham dự. Mỗi một người đều một nhà nghiên cứu hoàn hảo, hoặc triết học, hoặc khoa học. Tôi không dám hứa chắc là dải cầu vồng sẽ hiện ra khi cuộc thảo luận bế mạc, song, người đọc có thể sẽ dệt nên những chuỗi nhiều sắc màu từ trong những quan tâm của chúng tôi.


 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle