Phật dạy giữ thân không bệnh để tu
phat day than
Phật dạy
giữ thân không bệnh để tu
Nguyên Giác
Bài
này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để
có thể học và tu pháp giải thoát. Bài này được viết để làm tư lương cho tất cả
những người con Phật khắp thế giới, trong mọi hoàn cảnh. Duyên khởi là vì cõi
này rất vô thường, thân người lại mong manh, nếu chúng ta chưa tu tới đâu, mà
thân bệnh nguy ngập thì sẽ có thể bỏ lỡ một kiếp này.
Bệnh
và cái chết rất gần với chúng ta, như nhiều hoàn cảnh ghi trong kinh Phật, có trường
hợp bị bò tông chết (như ngài Bahiya khi chứng quả A-la-hán), có trường hợp cô gái 16 tuổi sau khi đắc quả Tu-đà-hoàn đã bị đầu thoi dệt đâm trúng ngực chết (kinh Pháp cú, kệ số 174). Do vậy, tu là phải khẩn cấp, và phải giữ thân không bệnh. Bài
này không bài bác bất kỳ hạnh tu nào, nơi đây chỉ chép lời Đức Phật dạy để độc
giả tự tìm xem mình có thể thích nghi với hoàn cảnh nào. Kinh Phật dạy là bữa
tiệc buffet mênh mông, nơi đó chúng ta có thể chỉ ăn một phần nhỏ là đủ để an lạc,
giải thoát.
Trước
tiên, Đức Phật nói rằng không bệnh là cần thiết ưu tiên. Trong kinh Pháp cú, hai bài kệ 198 và 204 ghi rằng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
198. Vui thay, chúng ta sống,
Không
bệnh giữa ốm đau!
Giữa
những người bệnh hoạn,
Ta
sống, không ốm đau.
204. Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết
đủ, tiền tối thượng.
Thành
tín đối với nhau,
Là
bà con tối thượng,
Niết-bàn, lạc tối thượng.
Bởi
vì thân người mong manh, nên phải cẩn trọng trong mọi trường hợp. Kinh Tăng nhất A-hàm
(EA 40.6) ghi lời Đức Phật dạy cách giữ thân cho không bệnh, nói rằng cần phải giữ
gìn thân thể, trừ lạnh nóng, tránh cho gió mưa không chạm vào thân mình, sao
cho bệnh cũ được lành, bệnh mới không sinh, tránh cả ruồi muỗi, khi thọ dụng
giường ghế đừng khởi tâm xa hoa (nghĩa là, nên ngủ nằm, nhưng đừng mê đắm giấc
ngủ), và nếu không thọ dụng tiện nghi thì sẽ bệnh (tai hại hữu lậu). Bản dịch của
hai Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng trích như sau:
“Sao
gọi là lậu được đoạn bằng thân cận? Ở đây, Tỳ-kheo nắm giữ tâm khi nhận y,
không vì trang sức mà chỉ muốn giữ gìn thân thể, muốn trừ lạnh nóng, muốn cho
gió mưa không chạm vào thân mình; lại che thân thể không để lộ ra ngòai. Lại nữa,
nắm giữ tâm theo thời khất thực, không khởi tâm nhiễm đắm, chỉ cốt giữ gìn thân
thể khiến cho bệnh cũ được lành, mới không sinh; gìn giữ các hành không cho xúc
phạm, an ổn lâu dài mà tu tập phạm hạnh lâu bền ở đời. Lại nắm giữ tâm ý, khi
thọ dụng giường ghế, cũng không ham trang trí tốt đẹp, chỉ mong trừ đói lạnh,
gió mưa, ruồi muỗi, giữ gìn thân mình để thực hành đạo pháp. Lại nữa, giữ tâm
khi thọ dụng thuốc trị bệnh, không sinh tâm nhiễm đắm nơi thuốc trị bệnh kia, chỉ mong cho bệnh
tật được trừ khỏi, thân thể được an ổn. Nếu không thọ dụng như vậy thì tai hại
của hữu lậu sẽ phát sinh. Nếu thọ dụng như vậy thì tại hại của hữu lậu không
sinh. Đây gọi là hữu lậu được đoạn bởi thân cận”. (ngưng trích)
Tới
đây, chúng ta sẽ dễ gặp một câu hỏi: Nên du hành hay nên chọn một trú xứ? Kinh Trung bộ
(MN 17)
ghi lời Đức Phật dạy rằng nên tìm một khu rừng thích nghi. Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:
“Chư
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh được định
tĩnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng
an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, nhưng những vật dụng
cần thiết cho đời sống một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được một cách khó khăn.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: ‘Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này,
các niệm chưa được an trú được an trú… vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa
được chứng đạt được chứng đạt… những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn.
Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
không phải vì món ăn khất thực… không phải vì sàng tọa… không phải vì dược phẩm
trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng trong khi
ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú… vô thượng an ổn
khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt’. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này, phải
ở lại khu rừng ấy, không được bỏ đi”. (ngưng trích)
Đức
Phật cũng nhấn mạnh yếu tố phải tìm trú xứ nơi dễ dàng nghe kinh, học pháp,
thân cận các Trưởng lão Tỳ-kheo. Kinh Tăng
chi bộ (AN 10.11), bản dịch của Thầy Minh Châu ghi rằng cần tìm trú xứ xa
nắng nóng, ít nguy hiểm, không gần và không xa làng xóm, nơi có nhiều cơ hội
nghe kinh, học pháp. Kinh này trích như sau:
“Ở
đây, này các Tỷ-kheo, trú xứ không quá xa, không quá gần, thuận tiện cho đi và
đến, ban ngày không đông đủ, ban đêm không ồn ào, không huyên náo, ít xúc chạm
với ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, và các loại rắn rít. Trú tại trú xứ ấy,
tìm được không mệt nhọc các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Tại trú xứ ấy, các Trưởng lão Tỷ-kheo đến ở là những bậc nghe nhiều, được
trao truyền kinh điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu, thường thường
đến các vị ấy tìm hiểu, hỏi han: ‘Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Ý nghĩa cái này là gì?’. Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa mở rộng, trình bày
những gì chưa trình bày, đối với những vấn đề còn khởi lên những nghi vấn, vị ấy
giải tỏa các nghi vấn ấy. Này các Tỷ-kheo, trú xứ như vậy thành tựu năm chi phần.
Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu năm chi phần, thân cận chia sẻ trú xứ thành tựu năm chi phần, không bao lâu, do đoạn
diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí có thể chứng ngộ
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”. (ngưng trích)
Kinh
Tương ưng bộ
(SN 16.1) ghi rằng nên sẵn sàng đón nhận sàng tọa, đón nhận thuốc chữa bệnh để giữ sức
khỏe cho mình để tu. Bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
“Tri
túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất cứ loại sàng tọa nào, và tán thán
hạnh tri túc với bất cứ loại sàng tọa nào; và không vì sàng tọa, làm điều bất
chính,
bất xứng. Nếu không được sàng tọa, vị này không có dao động. Và nếu được sàng tọa,
vị này dùng sàng tọa ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy
nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
Tri
túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất cứ thuốc men trị bệnh nào. Và vị
này tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào; và không vì
duyên với thuốc men trị bệnh, làm điều bất chính, bất xứng. Nếu không được thuốc men trị bệnh, vị này
không có dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh, vị này dùng thuốc men trị bệnh
ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly
với trí tuệ”. (ngưng trích)
Trong
rất nhiều kinh, Đức Phật khuyến khích nên ngủ nằm. Bản thân Đức Phật cũng ngủ nằm.
Kinh Tương ưng bộ
(SN 4.7),
bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
“Rồi
Thế Tôn sau khi đã đi kinh hành ngoài trời một phần lớn của đêm. Khi đêm đã gần
mãn, Ngài rửa chân, bước vào tịnh xá, và nằm xuống phía hông bên phải theo thế
nằm của con sư tử, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác và nghĩ đến lúc
thức dậy”.
(ngưng trích)
Một
lần, ngài Mahāmoggallāna đang ngồi thì ngủ gục. Kinh Tăng chi bộ
(AN 7.61) ghi rằng Đức Phật hiện ra, dạy cho ngài cách trừ ngủ gục, tuần tự nhiều
cách: đừng tác ý tới nó, đừng nghĩ nhiều tới nó; nếu chưa hết ngủ gục thì hãy tùy
quán pháp như đã học; nếu chưa hết thì hãy đọc tụng kinh như đã được học thuộc
lòng; nếu còn ngủ gục thì kéo lỗ tai, xoa bóp tay chân; nếu chưa hết thì đứng dậy,
lấy nước chùi mắt, nhìn về chân trời xa, về các vì sao; nếu còn ngủ gục thì tác
ý tới ánh sáng, xem như ban ngày; nếu chưa hết thì đi bộ kinh hành, với tưởng
trước mặt và với ý hướng nội; nếu còn ngủ gục thì hãy nằm theo thế nằm sư tử - nghĩa
là, nằm nhiếp tâm ưu thắng hơn ngủ ngồi. Kinh Tăng
chi bộ 7.61,
bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
“Nếu
thầy trú như vậy, và thụy miên ấy không được đoạn diệt, thời
này Moggallāna, thầy
hãy nằm như dáng nằm con sư tử, về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau,
chánh niệm tỉnh giác, tác ý với tưởng thức dậy. Và khi thức dậy, này Moggallāna,
thầy hãy thức dậy thật mau, nghĩ rằng: ‘Ta sẽ trú, không có chú tâm đến lạc nằm ngủ, lạc nằm xuống
một bên, lạc thụy miên’. Như vậy, này Moggallāna, thầy cần phải học tập”. (ngưng trích)
Kinh
Tương ưng bộ
(SN 35.239) cũng ghi lời Đức Phật dạy về chú tâm tỉnh giác trọn mọi thời, cả ban ngày
và ban đêm, khi ngủ cũng nằm như con sư tử. Bản dịch của Thầy Minh Châu như
sau:
“Và
như thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ban ngày trong khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại
pháp. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại
pháp. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên phải, trong dáng nằm con sư tử,
hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý đến lúc thức dậy. Ban đêm
trong canh cuối cùng, vị ấy thức dậy và trong khi đi kinh hành và ngồi, tâm trừ
sạch các chướng ngại pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chú tâm tỉnh
giác. Này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba pháp ấy, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại, sống nhiều
an lạc, hoan hỷ, và tạo nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc”. (ngưng trích)
Kinh
Tăng nhất A-hàm
(EA 33.7) ghi lời Đức Phật nói rằng không nên du hành nhiều, trích theo bản dịch của
hai Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng:
“Người
du hành trường kỳ có năm sự khó. Sao gọi là năm? Ở đây, người thường du hành
không tụng giáo pháp; giáo pháp đã tụng thì bị quên mất; không được định ý;
tam-muội đã được lại thoái thất; nghe pháp nhưng không thể hành trì. Này các Tỳ-kheo,
đó gọi là người du hành nhiều có năm việc khó này.
Các
Tỳ-kheo nên biết, người không du hành nhiều có năm công đức. Sao gọi là năm?
Pháp chưa từng đắc sẽ đắc, pháp đã đắc rồi lại không quên mất, nghe nhiều mà
ghi nhớ được, có thể đắc định ý, đã đắc tam-muội rồi không bị mất. Này các Tỳ-kheo,
đó gọi là người không du hành nhiều có năm công đức này. Cho nên, này các Tỳ-kheo,
không nên du hành nhiều”. (ngưng trích)
Đức
Phật nhấn mạnh về ưu tiên hoằng pháp, do vậy kinh điển khuyến khích xây dựng giảng
đường. Như trường hợp trong kinh Trung
bộ
(MN 94)
ghi về cuộc nói chuyện giữa Bà-la-môn Ghotamukha với Tôn giả Udena, về cách
cúng dường ưu thắng. Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:
“-
Này Bà-la-môn, ta không được phép nhận vàng và bạc.
- Nếu
Tôn giả Udena không được phép nhận vàng và bạc, con sẽ cho làm một tinh xá cho
Tôn giả Udena.
- Này
Bà-la-môn, nếu ông muốn xây dựng một tinh xá cho ta, thì hãy xây dựng một giảng
đường cho chúng Tăng ở Pātaliputta.
- Con
lại càng bội phần hân hoan, hoan hỷ, thỏa mãn với Tôn giả Udena, khi Tôn giả
khuyến khích con cúng dường chúng Tăng. Thưa Tôn giả Udena, với bố thí thường
xuyên này và với bố thí thường xuyên khác về sau, con sẽ cho xây dựng một giảng
đường cho chúng Tăng ở Pātaliputta.
Rồi
Bà-la-môn Ghotamukha với bố thí thường xuyên này và với bố thí thường xuyên
khác về sau, cho xây dựng một giảng đường cho chúng Tăng ở Pātaliputta. Nay giảng
đường ấy được gọi là Ghotamukhi”.
(ngưng trích)
Những
lời dạy của Đức Phật ghi trên hẳn là thích nghi với đa số người học và tu theo
Phật. Hãy luôn luôn nhớ rằng thân người rất mong manh, cần giữ cho thân không bệnh
để tu học.
Tham khảo:
-
Kinh Pháp cú, bài kệ 198 và 204:
https://thuvienhoasen.org/p15a7962/pham-11-20
- Kinh EA 40.6: Hãy giữ thân không bệnh, tránh nắng mưa, nên thọ dụng thuốc
trị bệnh:
https://suttacentral.net/ea40.6/vi/tue_sy-thang
- Kinh MN 17: Nên an trú ở khu rừng thích hợp, đừng bỏ đi:
https://suttacentral.net/mn17/vi/minh_chau
- Kinh AN 10.11: Nên tìm trú xứ xa nắng nóng, ít nguy hiểm, không gần và không xa làng xóm,
nơi có nhiều cơ hội nghe kinh, học pháp:
https://suttacentral.net/an10.11/vi/minh_chau
- Kinh SN 16.1: Hãy sẵn sàng đón nhận sàng tọa, đón nhận thuốc chữa bệnh:
https://suttacentral.net/sn16.1/vi/minh_chau
- Kinh SN 4.7:
Phật ngủ nằm nghiêng bên phải:
https://suttacentral.net/sn4.7/vi/minh_chau
- Kinh AN 7.61: Trừ ngủ gục:
https://suttacentral.net/an7.61/vi/minh_chau
- Kinh SN 35.239:
Chú tâm tỉnh giác cả trong cách nằm:
https://suttacentral.net/sn35.239/vi/minh_chau
- Kinh EA 33.7:
Du hành nhiều sẽ gặp khó:
https://suttacentral.net/ea33.7/vi/tue_sy-thang
- Kinh MN 94: Xây giảng đường:
https://suttacentral.net/mn94/vi/minh_chau