Nguồn gốc vũ trụ và quan hệ nhân quả trong Phật giáo

nguon goc vu tru

 

Pháp Hiền cư sỹ

 

Hai nhà vật lý thiên n học của chúng ta là George Greenstein và Piet Hut tiếp tục smô tcủa mình vcách tiến a của vũ trụ. Một điểm khó khăn trong khoa vũ trhọc là việc giải thích hợp lý t những quan t do kính viễn vọng đưa ra. Bằng những kính viễn vọng có tầm c lớn nhất hiện giờ, ta có th đạt tới một tầm nhìn rất u trong không gian, tuy nhiên ta phải nh là khi thực hiện như vậy, cùng một c ta cũng n t lại vvấn đề thời gian. Trước khi ánh sáng đi đến đôi mắt của ta, thì nó phải băng qua một thời gian rất i n đến hàng t năm. Ta ch có th suy ra t tình trạng của c công việc mà những nghiên cứu xa a đã thực hiện, bởi , những quan t thiên n trực tiếp của ta bao gicũng y o dkiện tích y của quá khứ. Tuy nhiên, qu thật, t s phân tích cẩn thận v những quan t như vậy, ta có thdựng n một u chuyện đích thực vthiên hà của chúng ta và toàn b vũ tr đã hình thành như thế nào, giống như i gì mà ngay c những lĩnh vực y ta không th thấy.


 

PIET HUT: Cách phân bố hình thể hiện tại của những ngôi sao vết tích do cách toàn bộ thiên được hình thành. Về cơ bản, một đám mây khí ngưng tụ, khi kết tụ, khởi sự quay. Sự luân chuyển này trở nên nhanh hơn, và rồi những ngôi sao được hình thành khắp mọi nơi. Những ngôi sao đều có chung một vận hành như là khí khởi nguyên. Chúng thừa hưởng sự luân chuyển của khí này và vì nó nặng đặc hơn ở trung tâm, cho nên nhiều ngôi sao hơn đã được hình thành. Ta còn biết là có những thiên khác, rất phức tạp về mặt hình thể chúng không quay vòng. Tuy không phẳng, nhưng chúng thể có bất kỳ hình thái nào. Chúng có thể tròn giống trái banh hoặc kéo dài như hình bầu dục. Sự chuyển động của những ngôi sao này trong một thiên hầu như toàn bộ ngẫu nhiên. Tuy vậy, thiên hà của chúng ta vận hành có hệ thống nhiều hơn.

 

 

GEORGE GREENSTEIN: Và rồi có những chùm thiên hà, chúng di chuyển bất nhất, không như thái dương hệ. Những thiên hà của chúng đi trên những con đường phức tạp và không có khuynh hướng luân u giống nhau. Hầu như những chùm này có những hình th ngẫu nhiên. Có khi chúng trông giống một bầy muỗi, hoặc tròn và đôi khi không có hình dáng nhất định.

 

 

Sau cùng sự khám phá gần đây nhất, những chùm này dường như cấu thành một mô hình rất khổng lồ trông như một đám bọt xà phòng, và chúng chỉ mới được khám phá gần đây. Những thiên đó nằm trong những miếng chăn cuộn bị phân cắt như bề mặt của đám bọt xà phòng và những vùng mênh mông giống như bong bóng rỗng. Chúng được gọi là những khoảng không đây một cấu trúc lớn nhất chưa từng thấy.


 

Tuy nhiên, nếu ta tạo được một kính thiên văn lớn hơn, thì ta sẽ thấy những cấu trúc khổng lồ hơn nữa.

 

 

PIET HUT: Song le, theo chúng tôi, s không có những cơ cấu nào mới hơn, thậm chí nếu ta có th phát hiện nhiều hơn. Ta nghĩ hầu như mọi hiện tượng như thế đều ít nhiều giống nhau. Vì nếu trong không gian được phát hiện nhiều cấu trúc, thì có nghĩa thời gian cũng được nhìn lại rất xa đến mức đ mà c bạn có th đạt tới một khoảng cách hay một thời ktrước khi những thiên hà sinh ra và s kiện đơn thuần được chứng kiến chính là ánh sáng phát ra của vBig bang. Ánh sáng y chuyển động đều (hằng sánh sáng) và hầu hết đồng nhất trong mọi phương hướng. Không có c cấu trúc bọt xà phòng và cũng không có hình thái chùm dải. S sai biệt của cường đ bức x m n 1/100 của

1%, nếu c bạn nhìn những phương khác nhau bầu trời.

 

 

Vấn đề đáng quan tâm là ta vẫn chưa biết vũ trụ tiếp tục dãn nở hay sẽ suy sụp. Tuy nhiên, bằng cách nghiên cứu sự phát sáng sau (afterglow), hy vọng trong vòng 5 hay 10 năm nữa, ta sẽ câu trả lời. Thường khi trong lĩnh vực thiên văn, cái gì quá xa lại đơn giản hơn cái gì rất gần. Ngay cả trong thái dương hệ của chúng ta, trái đất phức tạp hơn mặt trời. Nếu ta đào sâu trong lòng đất, ta sẽ thấy nhiều hòn đá khác nhau trong các nơi khác nhau. Mặt trời một trái bóng chứa hơi phát sáng được ta hiểu biết rất dễ dàng. Ta biết trung tâm của mặt trời nhiều hơn trung tâm của trái đất. Tương tự, ta đi trở lại xa hơn trong thời gian, thì ta sẽ biết nhiều hơn, bởi vì, vũ trụ sẽ đơn giản hơn. Bức xạ nền phát sáng đơn giản hơn bức xạ của những thiên hà, vì chúng hình thành sau.


 

DALAI LAMA: Tôi vừa hỏi phải bạn đã khám phá bất kỳ giới hạn nào hoặc ngay cả việc tìm ra cách giảm thiểu mật độ của những thiên hà hay không khi bạn quan sát từ rất xa, điều đó hàm ý rằng, chúng có thể chuyển di vô hạn đúng như ta được biết George đã không ý kiến gì. Song giờ đây bạn cho rằng, nếu bạn nhìn được tới một mức độ xa nào đó, thì bạn sẽ phát hiện một ánh sáng phát sau vượt lên trên các thiên hà ấy, nghe như bạn đã đạt tới một giới hạn thực sự về khối lượng vật lý của vũ trụ này.

 

 

PIET HUT: Ta không do để tin vượt ra ngoài một khoảng cách nào đó trong không gian lại có ít thiên hà hơn. Nhưng chúng ta không chỉ quan sát không gian mà còn phải quan sát cả thời gian lẫn không gian. Ta nhìn không gian xa hơn, thì thời gian được thấy dễ hơn; thật vậy, nếu thời gian được thấy rất xa, thì thiên hà sẽ biến mất. Không có thiên hà vào lúc ánh sáng phát sau. Có thể các thiên hà sinh ra khi mà vũ trụ đã được vài tỉ năm tuổi – ta chưa biết chính xác vũ trụ được bao nhiêu tuổi. lẽ những thế hệ kính viễn vọng tương lai sẽ cho ta biết các độ tuổi của thiên như thế nào. Các thiên hà mà ta quan sát được giống như là những “thiên hà thơ ấu” mới chào đời, tuy nhiên kính viễn vọng của ta vốn chưa được toàn hảo.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Cho tôi được giải thích về sự khác nhau giữa không gian và thời gian. Chúng ta tưởng tượng là, lẽ ra vũ trụ phải khởi đi từ một điểm đơn nhất, đằng này nó lại bắt đầu với một vùng không gian mênh mông. Đó sự sáng tạo

vụ nổ lớn nhưng hầu như ngay lập tức, trụ đã trở nên


 

khổng lồ, quy lên đến hàng trăm tỉ năm ánh sáng. Bấy giờ, hàng trăm tỉ năm ánh sáng đi qua, toàn bộ sự vật được tiến hóa trong thời gian. Giờ đây là 12 tỉ năm ánh sáng, ta đã cách xa khỏi thời kỳ sáng tạo y. Ta không cách nào thấy được mép rìa của không gian trụ. Vì ánh sáng cách xa đến 50 tỉ năm, nên không thời gian đi tới chúng ta. Do vậy chân trời mà ta thấy không phải là chân trời của không gian, mà đó là chân trời thời gian. Đơn giản ta không thể thấy độ xa đó. Ta sống không đủ lâu để nhận ra những thiên lẽ chúng tồn tại cách xa 50 tỉ năm ánh sáng.

 

 

DALAI LAMA: Thế nhưng, nếu bạn vẫn cho rằng, vào vụ nổ lớn, có thể vũ trụ tức khắc phải là 100 tỉ năm ánh sáng đường kính, vậy thì, toàn bộ ý niệm về không gian dãn nở sẽ không thể hình thành.

 

 

PIET HUT: Không, dứt khoát không. Cái xảy ra thì cái đó thuộc về phạm vi Big bang trong các sách thiên văn viết cho quần chúng thường có những điểm bị hiểu lầm, các điểm sai biệt luôn tách khỏi nhau, nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng. Điều này nghe như mâu thuẫn, vì Einstein cho ta biết rằng, vận tốc ánh sáng vận tốc cao nhất thể có. Trên thực tế thì nếu hai vật thể đi ngang qua nhau, tốc độ tương đối của chúng không thể nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Thế nhưng, trong vụ nổ Big bang, vận tốc giữa những điểm sai biệt có thể nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Thậm chí ta thể một trụ hạn, cùng một lúc bùng nổ. Vào thời điểm hiện tại, ta thể một độ sâu thời gian nhất định, nhưng ta cũng có thể có một không gian vô hạn.


 

Do v n lớn mà ta biết thời gian là hữu hạn, nhưng không gian có phải là như thế hay không, thì ta chưa thhình dung. Các quan t mới vnhững sai biệt không đáng ktrong việc ánh sáng phát sau s cho ta biết là có phải vũ tr hữu hạn hay không. Hiện tượng y (ánh sáng phát sau) được khám phá khoảng 30 năm vtrước và trong ngần y thời gian, người ta đã bra 25 năm nghiên cứu những sai biệt nhtnhiệt đcủa . Sau 25 năm nghiên cứu, cuối cùng khoảng 5 m n lại, hđã m ra chúng, những sai biệt nh y. Gi đây khi chúng được phát hiện, người ta có thtạo ra những công cđđạt được nhiều phép đo chính c hơn, và như thế trong khoảng 5 hay 10 m nữa, người ta s biết là mình có được bao nhiêu vấn đề. Y trên những khác biệt của nhiệt đ như thế, người ta cho rằng, c thiên hà đã sinh ra sau v n lớn. Nếu Ngàit đặc tính của những nguyên nhân y, thì Ngài s hiểu nhiều n v đặc tính của chúng, cũng như toàn b vũ trụ, k c là nó có suy sụp hay không.

 

 

DALAI LAMA: Chắc thuyết big bang bao gồm luôn cả bất kỳ loại giả định nào về điểm mà nó thật sự bắt đầu, liên hệ đến thiên hà của chúng ta?

 

 

GEORGE GREENSTEIN: Có đấy.

PIET HUT: Ở bất cứ nơi đâu. Đó là một vụ nổ vô tâm điểm. ARTHUR ZAJONC: Như vậy thì các bạn đã cho rằng, cơ học

lượng tử và nguyên lý chồng chập vẫn còn đang gây rối rắm. Giờ đây các bạn đều biết, ngay cả khoa vũ trụ học cũng đang bị rối rắm nhiều hơn.


 

Cũng như mọi người lần đầu tiên nghe được những ý tưởng y, đức Dalai Lama đã phải vất vả tiếp nhận vụ nổ vô tâm điểm, sự dãn nở xảy ra tức khắc mọi nơi của trụ. Còn sự khó khăn nữa, chính là phải lưu ý rằng, quan sát không gian, cũng có nghĩa cần xét lại thời gian. Chẳng hạn, người quan sát dữ kiện cách xa 100 năm ánh sáng xảy ra trong quá khứ đã 200 năm. Nếu một siêu sao nào đó hình thành trong vị trí không thời gian, thì ánh sáng của ta thể thấy được, vì nó vượt qua 100 năm để tiếp cận chúng ta; do siêu sao này đã tồn tại 200 năm, cho nên nó có đủ thời gian đưa ánh sáng đến với chúng ta. lẽ nó đã đến 100 năm rồi. Giờ đây hãy quan sát một siêu sao thứ nhì tồn tại cách đây 200 năm, nhưng vị trí ngày nay của đã cách ta quá xa, tức là, khoảng cách

500 năm ánh sáng. Ta hãy còn chưa thấy siêu sao thứ nhì y, bởi vì ánh sáng của nó phải đi tới 500 năm mới đến chúng ta. Khoảng 300 năm nữa, các nhà thiên học sẽ thông báo có mặt trong bầu trời.

 

 

Nói cách khác, trụ rất nhiều dữ kiện ta còn chưa biết, bởi vì tín hiệu ánh sáng vẫn chưa đến với chúng ta. Đây cũng là sự thật được chứng minh từ những dữ kiện sớm hơn hết. Cứ cho là vũ trụ đã được 12 tỉ năm tuổi. Nếu không lâu sau sự sinh của nó mà một vài hiện tượng như một thiên hà nào đó được hình thành cách xa ta khoảng 50 tỉ năm ánh sáng, thì ta không thể thấy dữ kiện như hiện nay. lẽ ta phải chờ đến 38 tỉ năm nữa.

 

 

Tình trạng này đã được Piet mô tả. Những nhà thiên văn học nhìn ra trong không gian nhìn trở lại thời gian. Ta thấy


 

thiên hà 10 tỉ năm ánh sáng hay những năm ánh sáng quá xa xôi. thể những thiên cách xa ta khoảng 50 tỉ năm ánh sáng, tuy nhiên ta không thể thấy, vì ánh sáng của chúng hãy còn chưa đến. Người ta thừa nhận những thiên sẽ đi khắp nơi trong một vũ trụ vô hạn; ta còn chưa nói là có phải chúng đang thực hiện cuộc di hành đó hay không. Cái mà ta nói đến với một vài chắc chắn, đó là vụ nổ lớn đã thật sự diễn ra khoảng 12 đến 13 tỉ năm qua. Nếu ta nhìn trở lại thời gian trên 10 tỉ năm, ta chỉ thấy những thiên hà sơ sinh và bấy giờ vũ trụ nóng rực ở độ trên zero tuyệt đối, tức là tàn dư của big bang mà ta nắm được.

 

 

DALAI LAMA: Với một trụ hạn trong thời gian, liệu nó có thể có đến vô lượng thiên hà hay không?

 

 

PIET HUT: Vâng. Tuy nhiên, người ta chỉ thể thấy được một con số hữu hạn của những thiên hà thôi.

 

 

DALAI LAMA: Đây quả là vấn đề hết sức gay go. Sự khởi thủy của toàn bộ vũ trụ trên một thời điểm hữu hạn, và sự dãn nở khởi đầu từ điểm ấy. Nếu ông có một thời lượng nhất định, trừ trường hợp những thiên hà nhanh chóng tăng lên theo một tốc độ hạn trong bất kỳ thời lượng hữu hạn nào, vậy thì bạn sẽ phải chấm dứt vấn đề bằng một con số của vô hạn thiên hà.

 

 

PIET HUT: Cho dù vũ tr là hữu hạn, thì cùng một loại vấn đnhư vậy vẫn tồn tại, bởi vì vnxảy ra nhanh đến đmà những b phận sai biệt của nó mất hết liên h nhân qu và cũng không có thời gian phát n hiệu cho nhau. Nếu i khảo t một


 

b phận của không gian, thì phần của ánh sáng phát sau y sẽ không có liên hgì với phần kia của . Sliên ho i ở thời điểm y mà ánh sáng phát sau khkiến của lúc y giờ được phát sinh là một c nh có i đ trên không gian. Tính đồng đều của ánh sáng phát sau là một trò chơi, bởi vì ở đó có l không có tương ưng nhân quả16. m sao mà s bùng n phát động cùng một cách trong mọi nơi? Nó không như bất c v nổ nào do i s vật chạm o nhau. Không có i gì va chạm nhau, ngay c s va chạm của ánh sáng. Nếu ta có th có v n trong một vũ trvô hạn, thì không có bphận khác biệt o cxát nhau và tất c vẫn vận hành trong cùng một cách. Hữu hạn hay vô hạn, ta đều có chung một u hỏi vô cùng quan trọng. Có thể

ta cần đến cơ học lượng t nhằm giải quyết điều y cũng nên.

 

 

 

 

 

 

 

16.  Quan niệm Piet trình bày trông giống như học thuyết “đồng thời cụ túc tương ưng” trong kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta không thể giải thích vì sao “nhân quả [có thể] đồng thời”, có nghĩa là, tiến trình trước sau của nhân quả, hoàn toàn bị tiêu diệt hai thế giới hoặc thậm chí chỉ hai hạt proton cách nhau hàng tỉ năm ánh sáng lại có thể cùng một lúc ánh hiện như nhau mà không liên hệ nhân quả. Điều này cho biết rằng, trong thế giới Thánh đế, sự tương đối, chẳng hạn, vận tốc tưởng của ánh sáng, như Einstein đã cho, đã không còn tưởng tối tôn thuộc về tục đế. Nói cách khác, trong cảnh giới thiền định, hạt cải của thế giới này, trong cùng một lúc thể chứa đựng tam đại thiên thế giới kia, còn hạt cải của thế giới kia, cùng một lúc cũng có thể chứa tam đại thiên thế giới này. Cảnh giới ấy, Phật giáo gọi cảnh giới “bất khả nghị,” một trạng thái trí phàm không thể vươn đến được – trong một bữa ăn, đi cúng dường 10 phương chư Phật. nơi Cực Lạc hiện thân giáo hóa khắp ta-bà. Và, đây, nó không còn là cảnh giới của triết học, luận suy.


 

Khả tính của một vũ trụ dao động

 

 

DALAI LAMA: Tới đây, ta đã không sự thảo luận nào về khả năng là có phải đã có một vụ nổ hay vài vụ nổ hàng loạt hay không. Cũng thế, không có lý do chính đáng nào loại trừ khả năng toàn thể những vũ trụ khác tự mình bùng nổ, sự tiếp cận vật với hiện tượng ấy hiện giờ đối với chúng ta không thể.

 

 

GEORGE GREENSTEIN: Đúng như vậy.

 

 

DALAI LAMA: Nếu việc tôi vừa đề cập một khả năng, vậy thì ta có thể có một góc độ khác nhau trên vấn đề vô hạn này. Lập trường chủ yếu dựa trên câu hỏi về nhiều Big bang là gì?

 

 

ARTHUR ZAJONC: Câu hỏi của ngài có thể tách ra làm hai phần. Hàng loạt những vụ nổ và khả năng những vụ nổ rất xa mà chúng thể xảy ra đồng thời hoặc bất nhất. Trước hết ta nên nêu ra chứng cứ về một vũ trụ dao động với hàng loạt những vụ nổ. Điều này liên hệ đến những thắc mắc về vật chất tối và liệu vũ trụ dãn nở bất tận hoặc nó sẽ dãn nở cho tới một điểm nhất định nào đó rồi sẽ suy sụp hay không. George, anh có thể lý giải vì sao mà ta chưa biết được?

 

 

GEORGE GREENSTEIN: Einstein cho ta biết phần nào chứng cứ để trả lời câu hỏi là có phải vũ trụ sẽ tiếp tục dãn nở hoặc suy sụp hay không rồi lại bành trướng. phụ thuộc vào số lượng vật chất có được bao nhiêu trong vũ trụ này. Nếu ta có nhiều hơn khối lượng giới hạn của vật chất, thì trụ sẽ dao


 

động. Nếu ngược lại, thì sự dãn nở đơn thuần cứ mãi mãi tồn tại. Nếu ta cố đo lường trụ bao nhiêu vật chất, thì một nhân tố phức tạp đầy quyến sẽ cuốn ta vào: hầu như bằng kính viễn vọng ta thấy được vật chất càng lúc càng nhiều hơn. Newton dạy ta rằng, vật chất dùng lực hút kéo những vật khác về phía mình. Ta thể được bao nhiêu lực hấp dẫn trong khu vực vũ trụ và ta có thể tính được nhiều lực hấp dẫn hơn cho mọi ngôi sao, mọi thiên hà và mọi hành tinh.

 

 

Từ nơi ta, trong một hoặc hai hoặc ba năm ánh sáng, thể có đến gấp hai hay ba lần vật chất nhiều hơn, ngoài tầm nhận thức của ta. Nếu ta xét toàn bộ thiên của mình, thì thể có nhiều hơn 10, 20, 30 lần vật chất ngoài phạm vi nhận thức. Có vẻ hầu hết vũ trụ này đã không được ta để tâm đến! Ta chưa biết vật chất tối gì. Ta đang chạm mặt với một vấn đề rất đáng quan ngại.

 

 

Câu hỏi hiện giờ là ta có đủ cứ liệu chứng minh vũ trụ dao động có phải do tác nhân của vật chất tối hay không. Câu trả lời không, tuyệt đối không. Thế nhưng, biết bao vấn đề mà ta còn chưa hiểu, chẳng hạn, bao nhiêu vật chất tối có lẽ như thế cũng đủ lắm rồi. Đây là một trong những lĩnh vực nghiên cứu gây hứng thú nhất của ngày hôm nay.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Nghiên cứu ánh sáng phát sau mà Piet vẫn đang giải một phương tiện khác để tạm thời giải quyết cho câu hỏi này. Bằng cách đo lường chính xác ánh sáng phát sau của bức xạ nền, các nhà vật thiên thể học hy vọng sẽ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi ấy.


 

PIET HUT: Tất nhiên, nếu trụ suy sụp, ta cũng không biết rồi nó sẽ lại dãn nở hay không. Hình như nó sẽ khởi động trở lại dễ dàng hơn một chút sau khi suy sụp. Tuy nhiên ta chưa có được thuyết y. Ta đã đề cập đến vấn đề đa trụ. Thực vậy, có vài suy luận cho là sau vụ Big bang, những vị trí khác nhau trong trụ sẽ làm nguyên nhân cho một vụ Big bang mới. Một hố đen trong vũ trụ của ta sẽ cho ra đời một vũ trụ khác nữa. Ta không hiểu được, nhưng thuyết “đa trụ” đối nghịch lại vũ trụ này là điều rất có thể.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Chủ đề càng lúc càng trở nên kích thích, thế nhưng ta phải đi trở lại 15 năm để có câu trả lời.

 

 

ANTON ZEILINGER: Điều đó vẫn thường được nói trong lịch sử khoa học: hãy trở lại 15 năm. câu trả lời bất thành; vấn đề chỉ làm rối rắm hơn. Ta lại nhớ đến tục ngữ câu: “Hãy cho tôi một mảnh trăng, tôi sẽ kể bạn nghe lịch sử của vũ trụ y.” Cách đó cũng phương. Ta đã một mảnh trăng, nhưng ta lại bị rối tung nhiều hơn nữa.

 

 

 

 

 

Cái gì khiến cho Big Bang xảy ra?

 

 

DALAI LAMA: Nếu lợi ích của cuộc tranh luận, ta nên thừa nhận rằng, Big bang là một vụ nổ cá biệt mà trên mặt luận lý, thì đấy là một lập trường vững chắc hơn cả, chỉ còn có việc là làm sao người ta tính được khởi nguyên của vụ nổ ấy?


 

PIET HUT: Thực ra vào lúc y, ta chưa thể nói được điều gì cả. Có một nguyên tắc trong vật lý là nếu ta dự ngôn về một điểm kỳ dị hay một cái đó hạn, thì cho vật ấy nhỏ đến cùng hay bất kỳ sự vật vô hạn nào, cũng có nghĩa là lý thuyết mà ta xây dựng đã bị đổ vỡ, cho nên ta cần đến một lý thuyết mới. Thực ra ta không tin trụ cùng nhỏ, sở ta tin thuyết dự tri nhỏ đến như vậy, ta phải phát minh một thuyết mới. Việc đó đang được mọi người tiến hành thực hiện. Có lẽ trong 10 năm hay 100 năm nữa, ta chưa có ý tưởng nào. Nhưng ta vẫn kỳ vọng, bởi vì tiến trình vẫn luôn được ta tạo ra trong lý thuyết của mình.

 

 

GEORGE GREENSTEIN (quay về hướng đức Dalai Lama): Thưa ngài, lập trường của Phật giáo về khởi nguyên của vạn hữu như thế nào?

 

 

DALAI LAMA: Vấn đề đặt ra chỉ nghiêng về trụ vật – như ta biết, đó không phải tất cả những được Phật tuyên thuyết những nguyên nhân chủ yếu khuynh hướng của chúng làm cho sự vật biến thái vật này thành vật khác. Nếu bạn truy nguyên vết tích những phát triển ngược về thời gian, bao giờ bạn cũng một cái hình thành từ chất liệu bấy giờ. Vật ấy hình thành từ chất liệu trước đây mà chất trước đây đã hình thành từ trước nữa, chất liệu trước nữa này lại hình thành từ chất trước nữa. Những biến thái. Hành và tướng của chúng hoàn toàn thay đổi. Có lẽ thay đổi một cách mãnh liệt, thế nhưng một loại nguyên bảo toàn đang diễn ra. Cái không thành cái cái ta chưa từng sở hữu bao giờ. Nếu như bạn không thừa nhận sự khởi thủy, thì bạn dễ dàng truy


 

nguyên một cách vô chung. Nếu bạn thừa nhận sự khởi thủy tuyệt đối (absolute điều kiện), vậy thì điều đó sẽ khiến cho sự vật tuyệt đối vô nhân.

 

 

GEORGE GREENSTEIN: Liệu quan hệ nhân quả có phải là một khái niệm chỉ ứng dụng cho sự vật sau cuộc sáng tạo (thế)?

 

 

DALAI LAMA: Phật giáo không chấp nhận sự khởi thủy vô điều kiện. Quan điểm về một khởi thủy tuyệt đối phi nhân được Phật giáo công khai chống đối trong luận học của mình. Nếu như ta cho rằng điều đó là vô lý, vậy thì bất cứ trụ hay thế giới hệ loại biệt nào hình thành đều phải có nguồn gốc từ tàn dư của vũ trụ trước đây đã bị hoại diệt rồi. Đây là nơi mà toàn bộ giáo nghĩa về không gian được Phật (giáo) đạt tới. Khi vũ trụ bị diệt, những yếu tố khác phân hóa thành hạt không gian (lân vi trần.)17  Từ những nguyên tử không gian y, chất xúc tác sẽ được kích phát, bắt đầu hình thành một chu kỳ thế giới tiếp theo. Tuy nhiên trong việc vận hành như thế vẫn có sự tương tục, sự bảo toàn. Khái niệm về nguyên tử không gian này không phải là chủ trương toàn diện của Phật giáo. Nó có thể hợp nhất với hệ thống giáo pháp Thời Luân (Kalachadra) đã được chi tiết hóa trong Phật giáo Tây Tạng.

 

ANTON ZEILINGER: Thưa đức Dalai Lama, khả năng mà không gian và thời gian cùng nhau tồn tại với vũ trụ là có lý chăng? Trong bức tranh y, câu hỏi triệt để về thời gian trước

 

17.  đây, mượn thuật ngữ của kinh Hoa Nghiêm để dịch cụm từ “space particle” của nguyên tác. “Lân vi trần”, tương tự như nguyên tử hay các hạt photon trong khoa vật lý đương đại.


 

Big bang là không thể ứng dụng rồi. Nếu thời gian bắt đầu ở khoảng khắc đó, vậy, trước đó đã không có, do thế cũng vô nhân quả (trước không sau là phi nhân quả).

 

 

DALAI LAMA: Ở đây vấn đề đơn giản là Phật giáo không thừa nhận không gian hay thời gian có sự khởi đầu hữu hạn, đúng như nền tôn giáo này đã không thừa nhận bất kỳ điểm khởi thủy vô điều kiện nào mà vũ trụ được tạo ra. Người ta có thể nói đến sự bắt đầu và kết thúc của một thế giới hệ đặc thù, nhưng không phải là vũ trụ xét như toàn thể.

 

 

 

 

 

Ý chí tự do trong cảnh giới nhân quả

 

 

Buổi thảo luận tiếp tục trong sự thân mật sau khi giải lao.

 

 

PIET HUT: Như thế nào ý chí tự do dành cho loài người? Có phải ý chí tự do là của ta hay mọi hành vi được một cái gì tác khởi?

 

 

DALAI LAMA: Ý chí tự do, theo bạn chính xác có nghĩa là gì?

 

 

PIET HUT: Nghĩa tôi chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nếu hành động của tôi do một cái đó gây nên, vậy tôi thể tránh né trách nhiệm như thế nào?

 

 

DALAI LAMA: Nói chung, Phật giáo thừa nhận con người


 

phải ý chí tự do. Nhiều hành vi của họ do chính cách của họ quyết định. Phật giáo không thừa nhận một đấng sáng tạo. Đương nhiên, Phật giáo phải thuyết về những vết in (tập khí) của nghiệp chúng sinh cưu mang từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, đồng thời, Phật giáo cũng cho phép tiềm năng của những tập khí do nghiệp tạo ra như thế thể được chuyển hóa hoặc làm chúng phát triển theo hướng tích cực nhất. Đấy là một tiến trình đang diễn ra.

 

 

PIET HUT: Nếu như chỗ dành cho hành vi sự chọn lựa cá biệt, thế thì sự vật hoàn toàn khả biến, vậy sao ngài cho rằng vũ trụ kiên cố hơn hẳn con người?

 

 

DALAI LAMA: Vì vật chất. Thế nhưng ngay cả trong lĩnh vực vật chất, Phật giáo cũng không cho rằng vũ trụ là tất định. Những nhà học Phật chỉ khẳng định trụ cần phải có nhân quả tương tục. Ta hãy lấy một thí dụ người đáp tàu đi từ Pantakot đến Delhi. Anh ta quyết định đặt vé, tất cả là tất định, song, cho tới khi anh ta đã thật sự bước lên tàu, hành vi đó phải tất định đâu. Bao giờ cũng do để thay đổi chênh lệch. Cũng vậy, trong trường hợp hệ thống trụ được cấu thành, cho đến khi sự tiến hóa thật sự xảy ra, người ta mới cho nó là khả biến.

 

 

ALAN WALLACE: Giống như trạng thái chồng chập của lượng tử.

 

 

DALAI LAMA: Theo Phật giáo, nghiệp của chúng sinh trong vũ trụ này đóng một vai trò qua hình thức cấu tạo trụ. Một


 

khi sự tiến hóa thật sự bắt đầu, lúc này con đường đưa tới quyết định mới khởi sinh.

 

 

ALAN WALLACE: Quan niệm ấy giống như sự suy sụp của hàm sóng. Lộ trình đó tất yếu. Tuy nhiên một giai đoạn bất định trước khi nghiệp quả định hình (trước khi thành quả hoàn toàn chín muồi của nghiệp được định hình.) Rồi sự chuyển biến xảy ra khiến cho chu kỳ bất định dừng lại, giai đoạn tất định khởi đầu cho hệ quả của những dữ kiện đặc thù.

 

 

ANTON ZEILINGER: Tôi thể hỏi một câu hỏi rất phổ thông? Ngài lấy do từ đâu thừa nhận sự vật phải nhân quả? Trừ trường hợp liên quan đến nhận thức, còn ngoài ra thì ta phải công nhận sự tồn tại của Thượng đế hoặc Thượng đế và nhận thức chẳng liên quan gì với nhau (nhân quả là nhân quả còn Thượng đế là Thượng đế)?

 

 

DALAI LAMA: Không có i gì do Thượng đế thực hiện cả. Chủ trương y của Phật giáo tuyệt đối không phải tuyên b y trên cơ s thần học mà nó thuần túy là cơ s của luận lý và triết học. Nếu bạn ch trương vạn hữu t sinh và phi nhân duyên, thế thì, hoặc là nó phải luôn xảy ra, hoặc bất kh sinh (đoạn kiến hay thường kiến). Do vậy thì ta s vô phương lý giải bản chất bất thường của nó.

 

 

ANTON ZEILINGER: Thế nhưng, sự vật nhân đang luôn luôn khởi sinh.

 

 

DALAI LAMA: Ta chưa biết, nhưng điều đó đang được tranh luận ở đây.


 

ANTON ZEILINGER: Liệu sự việc ấy không có mâu thuẫn nội tại? Nếu ngài cần một cái gì đó vô nhân thường sinh, vậy thì ngài cấp cho nó một cấu trúc siêu nhân quả. Một sự vật vô nhân quả.

 

 

Thực tế cho biết là một sự vật vô nhân thì luôn luôn bất khả sinh, thế nhưng đôi khi ta không bất kỳ do để kỳ vọng nó.

 

 

DALAI LAMA: Theo tôi, lẽ các nhà Phật học dùng thuật ngữ cause (nguyên nhân) với một ý nghĩa cùng rộng. Trong khi đó, trên thực tế của ngữ cảnh Tây phương, thuật ngữ này hầu như đồng nhất với việc giải nguyên nhân: một cái nên giải thích cho quả. Khi các nhà học Phật tuyên bố rằng, vạn hữu do duyên sinh (không có cái gì sinh ra mà không có nhân duyên), thì không có nghĩa là mọi sự kiện đều có thể được lý giải và được lý giải cho…

 

 

 

 

 

Về thân, tâm và nghiệp – Sắc, tâm và nghiệp

 

 

ARTHUR ZAJONC: Ngài có thể mô tả điều này nhiều hơn một chút chăng? Trong khi ta vẫn nói về tính ngẫu nhiên của những dữ kiện lượng tử, ngài đã xét đến khả năng của duyên nghiệp tác động lên kết quả, nhưng rồi ngài lại nói, không, điều này không thể nào ứng dụng được. Liệu có những phạm trù hay mức độ nhân quả nào siêu việt hẳn mức độ nhân quả của vật chất hay không?


 

DALAI LAMA: Nhân (duyên) được phân thành ba loại. Trước hết là những nguyên nhân thuộc về vật chất. Kế đến là những nguyên nhân thuần túy thuộc tinh thần hay tâm thức, không thuộc về khối lượng hay năng lượng. cuối cùng những duyên hợp phi liên kết, mà chủ yếu là không thuộc về khối lượng hay năng lượng, những sự vật như thời gian, không thuộc về cấu trúc tâm hay vật. Còn biểu tượng ưu việt khác về hợp thể phi liên kết, chính là một cá thể, một con người. Bạn không phải một hiện tượng vật lý. Arthur Zajonc không phải là một hợp thể gồm có khối lượng và năng lượng; chỉ là thân của bạn. Bạn không đơn thuần là một hiện tượng tinh thần. Bạn là con người có thân và tâm, nhưng bạn không phải là thân và tâm.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Liệu người ta có thể lý giải về những biến hóa ấn cùng với các tâm duyên hoặc các hợp duyên phi liên kết hay không? lẽ, đi xuống tới mức độ lượng tử thì các nguyên nhân vật chất sẽ vận hành dưới một phương cách thông thường. Song, việc ấy vẫn còn là một câu hỏi mở, vì hai loại nguyên nhân khác này phải đóng góp cho những gì xuất hiện với ta, liệu có phải là ngẫu nhiên hay không?

 

 

DALAI LAMA: đó người ta cần phải biết các ảnh hưởng như thế nào. Điều đó sẽ mang lại cho ta cách diễn giải về những liên hệ của nghiệp với các dữ kiện ấy mà chủ yếu là quan hệ đến tác dụng hình thành khổ lạc (khổ và vui). Đấy là chủ đề mà nghiệp buộc ta phải nghiên cứu.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Một số người sẽ nói, “nếu mức độ đầu


 

tiên của nhân quả vật lý lý giải cho vạn hữu, vậy không có cơ hội nào dành cho hai loại quan hệ nhân quả vừa nêu.” Do đó, tính ngẫu nhiên được nhận ra từ mức độ thứ nhất cũng hội cho sự lưu nhập của hai mức độ quan hệ nhân quả khác. Đây là vấn đề trọng yếu liên hệ đến thân–tâm. Làm sao mà tâm thức ảnh hưởng đến thân? Nếu thân hoàn toàn bị những nhân tố vật chất chi phối, vậy thì tâm vô định xứ. Song, nếu có một ranh giới nào đó làm cho vật chất hình như ngẫu nhiên, vậy, ta sở hữu được khả tính từ các tác nhân của tâm.

 

 

DALAI LAMA: Theo tôi, đây việc ấy cần phải được cụ thể hóa, vì ánh sáng ghi trên máy dò cho ta biết lý do đơn giản là ánh sáng đến từ nguồn này. Đấy là sự kiện hết sức hiển nhiên. Tính vô nhân đó được quy cho bối cảnh của hiện tượng lượng tử khi photon chạm phải máy dò. Thế nên, vấn đề hơi khác ở đây ta đang xem xét nguyên nhân của một dữ kiện, thay vì là một sự vật. Tôi không cho nhiều khả năng để các nhân tố tâm thức phi vật chất (những nhân tố thuần tâm thức) hoạt động, chẳng hạn, những biến hóa bí ẩn bên trong thí nghiệm khe kép hoặc trong sự phân rã phóng xạ. Chỉ đơn giản là nó đang diễn tiến. Sự phân phóng xạ xảy ra bất luận người quan sát ai. Không phải tâm, cũng không phải nghiệp tồn tại trong bất cứ cách nào mà ở đây ta liên hệ đến.

 

 

(Tôi đang nói là) lúc này trong đầu hay não bộ của ta liền hình thành các dữ kiện lượng tử. Rõ ràng là não liên quan đến thức (ý thức) trong đó những dữ kiện lượng tử. Liệu ta nên cho rằng, mọi ảnh hưởng nhân quả trong các dữ kiện thuộc về não đều đơn thuần bản chất vật không cái nào của


 

chúng lại thuộc về tâm tánh đích thực chăng? Không còn lý do để duy nữa sao! Khi ta liên hệ đến não, quả thật ta nên tư duy đến nhân quả của tâm. Những khuynh hướng đã thành thói quen hay tập khí thành nghiệp lực đang tồn tại trong dòng tâm của chúng ta, lẽ nào lại không tác dụng. Do vậy, vấn đề hơi khác này phải phức tạp nhiều hơn.

 

 

ARTHUR ZAJONC: Rất hấp dẫn. Rất đáng tranh luận.

 

 

Cuối ngày hôm đó và buổi sáng hôm sau, một ít người trong chúng tôi lại thảo luận tiếp vấn đề ấy trong tình thân mật. Ngoại trừ những bộ phận của cuộc thảo luận được ghi lại, ta còn có những ý chính như sau:

 

 

Hầu hết những nhà vật lý ngày nay đều tin vào đặc tính thống kê cơ bản của cơ học lượng tử. Thiên nhiên đơn thuần được tạo ra theo cách này. Ý tưởng về tính ngẫu nhiên khách quan chủ trương rằng, ta biết mọi nguyên nhân vật chất tác động lên một dữ kiện đặc thù như thế nào, thì vài cấp độ lượng tử tinh tế, dữ kiện ấy vẫn phải bất định. Những nhà vật khác

kể cả các nhà vật lý lỗi lạc, như Einstein – đều đã phản đối. Tính ngẫu nhiên khách quan đã không được chứng minh, và một lý giải về nhân quả tinh tế nhiều hơn hoàn toàn phù hợp với học lượng tử quy ước lẽ ý kiến tuyệt vời, trừ trường hợp nêu ra được thêm nhiều chi tiết hơn về các yếu tố đằng sau mỗi một dữ kiện. Chẳng hạn, cái gọi giải bản thể luận mà David Bohm đưa ra, vốn nhắm đến một phân giải như vậy.

 

 

Nếu ta chưa dứt khoát thừa nhận đặc trưng bản do học


 

lượng tử thống kê, thì ta có thể tranh luận rằng, mọi dữ kiện trong thiên nhiên, dù là viên xúc xắc lăn hay hạt mưa rơi, đều sở hữu một độ cực nhỏ của tính ngẫu nhiên khách quan. Ở một mức độ nào đó, thì mọi thứ đều học lượng tử. Lúc này, tính ngẫu nhiên khách quan của cơ học lượng tử trở thành cánh cửa cho các nguyên nhân phi vật chất đi vào. Đặc tính của những nguyên nhân vô hình vi diệu này là gì? Liệu chúng tương ưng với những được Phật giáo gọi những nguyên nhân của tâm, hay nghiệp an bày chăng?

 

 

Sự tranh luận dẫn đến kết quả một giới hạn tùy theo cấp độ mà các nguyên lý vật lý có thể ứng dụng được. Tính lưỡng trị (ambuguity) có giới hạn (tùy theo cấp độ) này xuất hiện vượt xa hơn. Các yếu tố khác có thể hoạt động trong các tính lưỡng trị như thế, như những gì được Phật giáo đề cập (nhân quả do tâm sinh). Ta thể đã biết những dữ kiện do ý hướng tính hay ý chí của ta thực hiện, thế nhưng sự thực hiện sẽ theo một hướng không vi phạm luật vật lý. Đây đường lối tiếp cận vấn đề thân–tâm mà ta đang thảo luận. Một cách xử lý khác loại trừ hẳn thân tâm hoặc bằng một cách nào đó loại trừ bất cứ y xứ nào dựng lên bản thể luận. Hiển nhiên Phật giáo bác bỏ cách giản hóa như vậy. Trong thế giới quan của Phật giáo tâm cũng có y xứ như thân.

 

 

Vấn đề vẫn tiếp tục duy trì. Làm sao mà những hiệu quả vô cùng nhỏ của học lượng tử lại tạo nên sự khác biệt trên cấp độ mô? Nghiên cứu sự hỗn độn của nhân quả cơ học ta có thể thấy được từ đó gây nên tâm nhiễu loạn tế vi (tâm phiền não tế vi). Thế nhưng, vẻ như sự kiện kích thích này không


 

thể tạo nên bất kỳ sự khác biệt nào. Đích thực là như vậy. Song, nghiên cứu về hệ thống động lực phi tuyến tính này cho biết là dưới những tình huống nhất định, thì các ảnh hưởng nhỏ thể đột ngột phát triển, thậm chí có thể phát triển theo hàm mũ. Điều này được gọi là sự phụ thuộc nhạy cảm vào những điều kiện tối sơ hoặc theo hiệu ứng con bướm.

 

 

Do vậy, vài ý kiến cho rằng, việc nối kết giữa tính bất định lượng tử với động lực hỗn độn có thể cung cấp nền tảng cho hiệu ứng của tâm tác động trên thân như thế nào. Ở trường hợp này, những yếu tố của tâm thức có thể thâm nhập cơ cấu vật lý của loài hữu tình như chúng ta.

 

 

 

 

 

Khái niệm về tương quan nhân quả

 

 

David Finkelstein đưa ta trở lại với vấn đề tương quan nhân quả. Ông ấy phân biệt giữa tương quan nhân quả theo ý nghĩa của Einstein với thuyết tất định. thuyết tương đối mà Einstein đặt ra thì rất đơn giản, ngoại trừ sự ràng buộc chặt chẽ trên tính tương quan ấy, tức là nhân quả không thể truyền nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Do đó, một sự kiện ở nơi này không thể ngay lập tức “khiến cho” cho một sự việc ở xa kia khởi sinh. Đúng hơn, bản chất của sự nhiễu loạn hay một tín hiệu nào đó cần phải có tiến trình mang tính vị trí và tốc độ nhanh nhất thể di hành, chính y trên vận tốc ánh sáng. Nên lưu ý rằng, sự ràng buộc này hoàn toàn không đề cập đến nhân quả học (cơ học của tương quan nhân quả).


 

Nói đúng hơn, vấn đề đó chỉ đơn giản là, sự ràng buộc tính vũ trụ thôi. Ngược lại, thuyết tất định cho ta sự quyết đoán rằng, việc tiến hóa của thời gian mà hệ thống chi tiết hóa của nó bên dưới nghiên cứu là hoàn toàn được ấn định. Người ta có thể hình dung thuyết tất định bị sụp đổ như thế nào một vài mức độ, nhưng (sự sụp đổ ấy) không vi phạm việc ràng buộc nhân quả được Einstein chủ trương. Cơ học lượng tử là một dụ. Trong khi hàm sóng phát triển một cách tất định, thì nó phù hợp với phương trình của Schroedinger về sự phụ thuộc thời gian, những dữ kiện đơn điệu của thế giới vật lý không nhất thiết là bị trói buộc (vào bất cứ sự tất định nào). Trên nền tảng này, ta thể trở lại cuộc thảo luận của mình.

 

 

DAVID FINKELSTEIN: Tôi tự hỏi sai lầm nào chăng trong cách truyền đạt của chúng ta. Ta đã cho rằng, tương quan nhân quả chẳng phải tất định tôi không nghĩ điều đó sẽ không gây trở ngại nào khi ta mô tả những gì được thấy trong cơ học lượng tử. Nếu như nhân quả mà Einstein đã cho là tất yếu, vậy thì thuyết tất định phải sụp đổ. Thật ra, điều này khiến tôi khó hiểu là làm sao mà một thiền giả đi đến kết luận rằng, thủy tức là chung (khởi thủy như thế nào thì kết thúc như thế ấy). Tôi tưởng đến một hành giả thể nghiệm sự vật chỉ như mới khởi sinh

 

 

DALAI LAMA: Lĩnh vực này vẫn còn đang rối rắm. Để bắt đầu với vấn đề y, trên thực tế thì Phật giáo chưa bao giờ đặt trọng tâm vào việc phân tích nhân quả ở phạm vi photon và electron. vậy, cố làm vừa vật lượng tử trong bộ khung Phật giáo rộng hơn, quả rất khó. Cũng vậy, Phật giáo thường


 

nói đến sự tồn tại, tồn tại tương tục hay liên tục trong tương quan nhân quả. Điều đó không nghĩa là, cùng một thực chất mà mọi hướng được duy trì, chẳng hạn, lửa phải cháy suốt, mới được cho lửa tương tục. Đôi khi sự tương tục được biết là liên quan đến tiềm thể (tính). Dụ như, sự tương tục của thức (ý thức) hay một dữ kiện tri thức, thì sự tương tục này được hiểu như một loại tập khí hay (nghiệp) an y. Cũng vậy, đôi khi sự tương tục của một đối tượng vật chất được hiểu là liên quan đến một tiềm thể nào đó, do vậy không nhất thiết phải cụ thể hóa. Chẳng hạn, khi ta nói đến một dữ kiện sẽ xảy ra hay một đối tượng tương lai, thì trường phái Cụ Duyên (Prasantika shool) sẽ xác định rằng đối tượng ấy hiện hữu trên phương diện tiềm thể tính, nhưng các duyên của hoàn toàn thể.

 

 

ARTHUR ZAJONC: lẽ ngài cần quan tâm đến cách chứng minh ánh sáng của Aristotle. Hãy tưởng tượng căn phòng này không có cánh cửa sổ nào cả, như vậy thì không có ánh sáng bên ngoài vào, chỉ có ánh đèn trên trần nhà thôi. Nếu tắt hết mọi nguồn sáng y, thì ta sẽ không thấy gì. Aristotle cho rằng, căn phòng này trong suốt trên mặt tiềm thể tính. Nếu ta mở nguồn sáng, thì căn phòng sẽ trở nên trong suốt, ánh sáng, đối với Aristotle, hiện thực hóa của sự trong suốt tiềm tại. Một số giáo chỉ của Phật giáo hoàn toàn tương đồng với quan niệm này.

 

 

DUY MINH: Tuy không hoàn toàn một Phật tử, nhưng khi đọc đến khái niệm cổ điển về tương quan nhân quả, khiến vấn đề được mở ra với tôi như thế nào về các khả năng mới trong lý duyên sinh hay duyên khởi. nếu các bạn quan sát nó,


 

không chỉ trên góc độ vật lý, mà còn trên cả quan điểm xã hội học hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau, thì giáo chỉ này rất có ý nghĩa. Một thí dụ: Nhà hội học khét tiếng Max Weber đã vô cùng ngạc nhiên bởi sự liên hệ giữa đạo đức Tin Lành với tinh thần của chủ nghĩa bản. Ông ta đã đặt ra thuật ngữ “sự liên hệ có chọn lọc” để mô tả ý niệm ấy, theo ông, sự liên hệ chưa hẳn là liên hệ trên nhân quả. Sự vật đồng thời nảy sinh, chưa hẳn nảy sinh trên nhân quả18. những hình thái đôi khi thể hiện sự tương ưng, đôi khi gợi đến tính ngẫu nhiên khách quan. Trong trường hợp y, các ông không thể quy tính nhân quả theo ý nghĩa cổ điển. Các bạn biết cái nên được lý giải hoặc nên được nhận thức. Hiện tượng này thể hiện sự hội tập của các lực tương tác (lẫn nhau). Tất nhiên, thể có những nguyên nhân bí ẩn và có thể có rất nhiều, rất nhiều loại lý do khác nữa. Trọng tâm Phật giáo nhắm đến làm sao đạt tới bản chất đa chiều của những liên hệ y. Tất nhiên có những nguyên nhân ẩn hẳn nhiên còn cả những động cơ nữa. Đó không phải do tâm cấu trúc và càng không đúng khi cho đó ảo ảnh trên phạm vi quang học. Theo tôi thì lý duyên khởi mở ra toàn bộ những khả năng khác, bởi vì bản thân mà quan điểm lượng tử vốn có, chính là tính tự phản tỉnh (self-reflexivity).

 

 

DALAI LAMA: lẽ cách rối rắm về tương quan nhân quả

 

 

18.  Phật dạy: Cái này sinh thì cái kia đang trở thành, cái này diệt thì cái kia diệt.” Do vậy, “cái này sinh…” chưa hẳn là nhân cho cái kia đang trở thành – đó là tính liên hệ, đúng như ý tưởng của Duy Minh – ý tưởng mới về duyên sinh. Tuy “mới”, nhưng thật ra “không mới”, như ta thấy qua giáo chỉ của Phật đà


 

phát sinh từ các ngữ cảnh khác nhau trong những luận bản mà chư luận đã thuyết về nó. Giáo thuyết kinh điển về nhân quả của Phật giáo được các trường phái duy thực trình y. Tuy nhiên, trong luận bản Căn Bản Trung Quán Luận Tụng của Long Thọ, một luận bản về triết học trường phái Cụ Duyên lấy đó làm y chỉ nhờ thế chư luận Tây Tạng thể hiện được tuyệt đỉnh của tư duy triết học Phật giáo, trong đó tính nhân quả đồng thời đã được đề cập. Hình thái quan hệ nhân quả Long Thọ tả hình thái tương duyên. Ngài thuyết về nhân duyên, chính đồng thời tương hỗ giữa năng và sở hành (tác giả và hành vi). Trong ý nghĩa cổ điển, duyên chỉ xảy ra theo một hướng. Quả do nhân sinh đến mức mà không có đường lối nào xung quanh nữa, còn trường phái Trung Quán Cụ Duyên giảng về nhân duyên tương hỗ.

 

 

 

 

 

Khoa học trong tương lai

 

 

Rời khỏi những trầm tư có phần tinh tế này về tương quan nhân quả, chúng tôi trở lại với các đề tài rộng lớn hơn, khi cùng David nhìn về phía trước với những giai đoạn tiếp theo mà khoa học khám phá và chạm phải sự thách đố.

 

 

DAVID FINKELSTEIN: Để siêu việt vụ nổ Big bang, ta phải siêu việt đời sống vật lý hiện tại của mình. Bởi vì vụ nổ này được cho là nét đặc dị trong các lý thuyết hiện tại, mà việc rất dễ hiểu là hiệu ứng lượng tử sẽ vô cùng quan trọng trong tình hình thực tiễn y. Chẳng hạn, nếu không gian thời gian đều


 

hàm hữu lượng tử thì câu hỏi về nét đặc dị ấy sẽ không đặt ra. Vấn đề là ta phải phát hiện nó.

 

Người ta đã từng dành 50 năm để khảo sát định luật vật lý sẽ diễn tiến như thế nào, thế vẫn những vết tích thôi. Rõ ràng là ta đã ở dưới chân của một cao nguyên khác. Có lẽ còn có cách tiếp cận khác nữa dẫn đến tiền đồ của tính tương đối cũng nên. Tôi đã cố thảo ra một danh mục về tính tương đối được tiếp cận toàn diện trước đây để một khởi đầu thành công cho cú nhảy vào cao nguyên tương lai. Tóm lại, theo tôi, trong cuộc chạy đua y, Đông phương đã bắt đầu vượt xa Tây phương khoảng 1.000 năm. Như ta biết, tính tương đối của phương vị, phức số của những thế giới lần đầu tiên được tri nhận Tây phương vào thời đại Bruno, khoảng năm 1600, thế điều này đã xảy ra Đông phương cách đây 1.000. Ta khởi sự bắt kịp một chút xíu về vận tốc tương đối mà theo tôi thì đã được biết đến lần đầu tiên Tây phương, thời gian tương đối đã được gắn liền cùng Einstein. Lại một lần nữa Đông phương đã dẫn đầu Tây phương với một ý nghĩa rất quan trọng về thuyết lượng tử. Đó là lý do vì sao mà vũ trụ học của Tây phương lại bắt đầu bằng những hành tinh, đã bị tụt dần xuống và rồi lấy làm kinh ngạc khi phát hiện các electron và photon đều những hạt tính nhạy cảm như thế nào, còn vũ trụ học của Đông Phương thì bắt đầu bằng những duy mở rộng ra trên đó. Theo họ, các hạt photon nhạy cảm đến mấy, thì đâu đáng ngạc nhiên, bởi ngay cả những ý niệm còn nhạy cảm nhiều hơn thế nữa19.

 

19.  đây, David Finkelstein muốn lặp lại ý của Đức Dalai Lama về sự quan trọng của việc nghiên cứu thế giới nội tại của Đông phương, nhất


 

DALAI LAMA: Qua tính nhạy cảm bạn muốn nói điều gì?

 

 

DAVID FINKELSTEIN: Cách năng quán hay cải biến sở quán là câu trả lời của các nhà Đông phương học hay một thiền giả. Thật ra thuyết lượng tử cũng là một học thuyết mà tất yếu là mọi cách quan sát làm cải biến đối tượng được quan sát. Đối với mọi vị thiền giả, điều đó là đương nhiên.

 

 

Vấn đề tiếp đến là quy luật. Ở đây tôi thật sự ngạc nhiên là vì sao Tây phương vẫn đi theo đuôi tất cả sau nhiều năm. Lại một tình huống làm ta phải nghĩ đến một cái gì đó vận hành vô tác dụng. Ta người thừa hưởng từ Einstein ý tưởng về quy luật. Quy luật là một phương trình được viết thành văn mà ai cũng biết đến và làm ảnh hưởng những gì vốn xảy ra trên thế giới này. Không có sự ảnh hưởng ngược lại. Những gì xảy ra trên thế giới đã không ảnh hưởng đến định luật y. Tác dụng một chiều này đến giờ vẫn luôn là dấu hiệu của một lý thuyết suy đồi vượt qua tác dụng cân đối hơn đang tồn tại. Bởi thế giới là lượng tử, cho nên, hầu như quy luật ấy cũng tất nhiên có bản chất lượng tử, điều này muốn nói rằng, chưa bao giờ được hiểu hết và chưa bao giờ được viết ra.

 

Đây vấn đề hết sức khó khăn để một người Tây phương thừa nhận. Giờ đây tôi cảm thấy hơi bối rối sau quá nhiều năm nghiên cứu về cái mà lẽ ra ta nên thấu hiểu. Thật không tương xứng chút nào với công sức ấy. Thế nhưng, trong phần còn lại

 

Phật giáo. Còn Tây phương, thì nghiên cứu theo khuynh hướng ngoại tại mà chủ yều y trên triết học Thiên Chúa giáo điều đó dẫn Tây phương tụt hậu (work down) sau Đông phương 1.000 năm.


 

của đời mình, tôi vẫn cứ giữ lấy ý tưởng sở hữu trọn vẹn cái (bất khả toàn tri) đó. Chắc chắn rằng, tôi không phải là người tiên phong trong công việc y. Tôi chưa từng làm người tiên phong. Công việc của tôi thực hiện chỉ mức độ lượng tử qua lĩnh vực hình học mà Einstein đã tiến hành. Einstein cho rằng hình học và vật chất ảnh hưởng lẫn nhau. Các quy luật của tự nhiên và vật chất tác động lẫn nhau. Nắm được quy luật này rồi, Einstein buộc phải tuyên bố tiếp theo rằng, nếu hình học là đối tượng của vật lý, vậy thì ai còn cần đến bất cứ cái gì nữa? lẽ hình học tất cả. Đây được gọi thuyết trường thống nhất. Nó không phải là việc thao tác. Sự vật tương ứng ở mức độ này sẽ phải cho rằng, nếu quy luật ấy một thực thể vật lý tiến hóa, một thực thể lượng tử, vậy, ai còn cần cái gì nữa? Ở Tây phương, vấn đề này hẳn là nan giải. Còn đối với phương Đông, tôi tự hỏi, điều đó sẽ khó khăn như thế nào?

 

 

DALAI LAMA: Nếu như người ta khẳng định sự tồn tại của những quy luật tự nhiên này, vậy, xét trên viễn cảnh của Phật giáo, liệu ta cần phải đặt ra sự tồn tại của bất cứ sự vật nào, chẳng hạn, không gian, thời gian, tâm, vật chăng? Có lẽ là không. Những quy luật ấy hẳn là đủ lắm rồi. Nếu như bạn so sánh giữa nền vật lý Tây phương hiện đại với khoa vật của Phật giáo, thì trong Phật giáo có nhiều giáo chỉ về những quy luật tự nhiên được trình bày ở những luận bản rộng hơn bao hàm ba cảnh giới: vật chất, ý thức, (tâm vật) những thực thể cấu tạo trừu tượng. Những quy luật tự nhiên này được trình bày như một cái gì bao gồm cả các nét chung của ba lĩnh vực ấy. Tuy nhiên trong các luận bản đó, những luật vật không được thảo luận tinh tường.


 

THUPTEN JINPA: Cơ bản là vì các vị luận sư Phật giáo chưa tiếp cận được kính viễn vọng hay kính hiển vi. Họ chỉ có tư duy và thể nghiệm đưa tới các thuyết về vũ trụ vật lý.

 

 

 

 

 

Hướng đến hình ảnh hợp tác của loài người

 

 

DUY MINH: điểm gặp nhau y, tôi lấy làm hân hạnh được đàm luận cùng David để chia sẻ vài duy mình từng ấp ủ.

 

 

Chúng ta đã xét đại cương về những vấn đề nhỏ nhất và rộng nhất, mà ở đó ai cũng có thể nắm bắt được từ mọi cách lý giải của khoa học hiện thời sức sáng tạo được công khai hóa. Vai trò sinh động của người quan sát gợi rõ lên một tầm nhìn mới về cách con người trong toàn bộ sự nghiệp y. Với sự đột hiện của nền vật trụ mới, rất nhiều giá trị hội văn hóa khi xưa được cuộc cách mạng khoa học đóng góp thành bộ phận đáng kể trong kế hoạch khai sáng Tây phương hiện đại, giờ đây đã lỗi thời, hoặc chí ít là bị xét lại. Qua lịch sử, xét về tiến trình từ tôn giáo đến siêu vật lý (siêu hình học) của khoa học, thì sự tiến bộ của khoa học khiến cho nhiều hình thức tri thức không phù hợp hay dụng đã bị bỏ lại phía sau. Sự kiện nào sai lầm, hầu như được ta giải minh bạch rồi. Ta nên cẩn thận kiểm tra trở lại là có phải lý tính – thay vì phải kiểm tra những khía cạnh trong năng lực con người như sự đồng cảm hay lòng bi mẫn – có phải là quá xa cách lĩnh vực quan trọng nhất của sự phát triển loài người hay không. Theo tôi, nếu ta phân tích một điều đó đủ sâu thì chủ nghĩa giản hóa người


 

ta tin theo cũng phải lỗi thời, khi họ kỳ vọng rút những cấu trúc phức hợp thành tối giản.

 

 

Phật giáo là một tôn giáo nổi bật hơn hết trong những truyền thống tâm linh đại bao hàm nhiều hình thái trí tuệ cổ xưa của thế giới y. Tuy nhiên, ngay cả nhiều truyền thống tín ngưỡng bản địa, chẳng hạn, tín ngưỡng Hawaiian, Maori, và Navi American vẫn còn giữ cho ta những giá trị trường tồn. Nhất ý nghĩa ta có, chính môi trường tương quan để kẻ trí hay người quan sát được chia sẻ – nói cách khác, mối quan hệ dành cho con người, đặc biệt là qua nhiều hình thái khác nhau của các phép tu tâm từ đó con người thể tự giác, tự trui rèn. Ở đây, ý nghĩa ấy là gì?

 

 

Trước hết và ở góc độ nhỏ nhất, quan điểm giản hóa về nhân cách phải được loại bỏ. Con người không đơn giản loài vật có lý tính. Con người cũng không đơn giản là người sử dụng công cụ hay (phương tiện). Con người càng không đơn thuần là nhà ngôn ngữ. Con người vốn có thi tính và tính thẩm mỹ, họ có khả năng ứng xử nhạy bén với mạng lưới luôn mở rộng của những liên hệ trong thế giới loài người và vượt lên trên, ngay cả với những sao xa xôi. Hãy xem những bức tranh về trụ các thí nghiệm đã làm cho ta bị áp bức sợ hãi như thế nào. Loài người những chúng sinh mang tính hội mà điểm trọng yếu đặt trên những liên hệ và tương ưng. Loài người ai cũng có phẩm tính chính trị; ngoài việc sáng suốt trong đánh giá, con người còn có lịch sử và tín ngưỡng, cho nên họ luôn đi tìm thắng nghĩa hay ý nghĩa rốt ráo; với tính triết học, họ tác nhân trong tiến trình ý thức tự phản tỉnh.


 

Con người không chỉ những người quan sát, hay thậm chí là những nhà thực nghiệm họ còn những nhân vật chủ chốt trong tiến trình ấy những người hành động trong ý nghĩa hợp tạo này.

 

 

Ở đây, có sự cộng tác giữa con người và thiên nhiên và cũng thế đối với những nhà tôn giáo, cho các nhà tôn giáo không nhất thiết phải là những khoa học gia, nhưng họ là (cầu nối) tương hỗ giữa thánh–phàm. Chúng sinh chúng sinh của hợp tác trong hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ yếu là: Trong quá trình phát triển tri thức của mình, ta chưa bao giờ là những người quan sát triệt để tư, phi ngã, ta cố khám phá một cái đó đích thực ngoài kia. Đó vọng tưởng (vọng ngoại cầu huyền). Ý nghĩa kế đến là ta bị kéo vào trong tiến trình ấy một cách tích cực: trong cấu công cụ, những quan niệm ta bám lấy, hoặc sự xuất hiện của ta đã được định vị trên thời điểm, phải hiểu đều do nghiệp sở thành. Ta biết rằng trong sự cống hiến của ta cho tiến trình thụ đắc tri thức phải cần được dự toán, còn ngay cho từ viễn cảnh những ngôi sao các thiên ta thấy, thì chúng vẫn được cho giả hữu hoàn toàn. Đây một sự liều lĩnh khi liên hệ với thực tại toàn bộ cuộc sống của ta đang bị kéo theo.

 

 

Không phải ai cũng hiểu được cộng nghiệp một thực thể mà do chính chúng ta đã cùng tác tạo, tôi vạch ra hành trạng này với một cảm giác vừa kính sợ vừa nhân bản, nếu như điều đó gây nên hiểu lầm, thì nó sẽ là sự báng bổ xét từ quan điểm tín ngưỡng. Chủ nghĩa nhân bản xuất hiện từ thời kỳ Khai Sáng của châu Âu cũng như từ sự khám phá khoa học dẫn thành hệ


 

thống ý thức xem con người là trung tâm hóa của tất cả. Chủ nghĩa này là loại chủ nghĩa duy khoa học, chứ không phải là khoa học, vậy, thuộc về ý thức hệ. Tiến trình kéo theo, chính là loại bỏ hẳn khả năng tâm linh của chúng ta và hùng hổ khai phá thiên nhiên. Duy khoa học vừa không phải là một loại chủ nghĩa duy nhiên, cũng chẳng phải chủ nghĩa duy linh. Đây là một học thuyết lấy tri thức làm sức mạnh. Trong hoàn cảnh y, (tức một hoàn cảnh ta đang bị bám vào tâm, vật, hoặc vừa chấp tâm vừa chấp vật hay chấp phi tâm phi vật, chấp tri thức phê phán, loại trừ viễn cảnh trụ khách quan), thì loài người phải người đồng tác tạo (hay chung tay dựng nghiệp) với niềm tin rằng, mật mã của vũ trụ đã cắm rễ sâu vào trong chính bản chất của mình. Nỗ lực để giải được mật mã này, nhất là trên phương diện nhân bản, người ta phải có khả năng tự tri, tự trau dồi (tự tu), trầm tư và thiền định. Điều đó có thể cần đến nhiều đời, thế nhưng, một số hệ thống tuyên bố một cách lạc quan rằng: đừng lo, còn rất nhiều đời để giải. Ở Tây phương, ta sẽ rất nóng lòng nếu như trong đời này chưa thực hiện được điều y. Tôi nghĩ (thiếu niềm tin trong những kiếp tái sinh đầy thuận lợi) đó là một hạn chế và làm cho ta không có khả năng thăng tiến.

 

 

Ở đây vấn đề toàn diện về trách nhiệm đạo đức đã trở nên quá khẩn thiết. Nói cách khác, khi làm một người cộng tác trong tiến trình nhận thức, ta không chỉ nâng cao sự thỏa mãn của mình trong lúc đạt được nhiều tri thức hơn cho cộng đồng xã hội. Khi sự định hướng của ta là những tác giả cũng như định hướng trong cách kiểm soát chi phối, thì đó tiến trình vũ trụ được chuyển hóa. Tôi còn nhớ một đoạn giáo ngữ


 

truyền thống Trung Hoa cổ đại đã dạy ta như sau: Nếu như khối óc và trái tim (tâm trí) của ta được lãnh ngộ hoàn mãn, vậy thì ta cũng hiểu thấu bản chất của chính mình. Nếu ta hiểu bản chất ta, thì ta cũng hiểu bản chất của loài người và khi ta hiểu được bản chất của loài người, thì ta cũng hiểu luôn bản chất của sự vật. Nếu ta hiểu được bản chất của sự vật, thì ta có thể tham gia tiến trình chuyển hóa và dưỡng nuôi thiên địa và như thế, khối tam tài thiên, địa nhân sẽ được hình thành. Giờ đây ta có thể duyệt đọc triệt để toàn bộ sự vật theo hướng đảo ngược. Nếu như ta không cố gắng hiểu biết bản chất của chính mình; nếu ta nhấn mạnh vào sự xâm lấn thiên nhiên vì cái bị giới hạn của chính mình bằng nhận thức quy ngã, nếu ta triển khai công cụ để khai thác thiên nhiên trên hành tinh của mình không được nhận thức sâu hơn, vậy, thực tế là ta biến mình thành những kẻ phá hoại, thay vì là những người cộng tạo.

 

 

Khi ta nhìn vào những sao khổng lồ quá trình của trụ, ta không khỏi kinh ngạc về tầm quan trọng của một cá nhân đơn độc, hay thậm chí của mọi khoa học gia, tức là tầm quan trọng của toàn thể cộng đồng nhân loại này như thế nào. Tuy nhiên, nếu ta giữ lấy quan điểm riêng ta về trách nhiệm như là những người cộng tác hay đồng sáng tạo, vậy, loài người sẽ thành là loài đáng sống trên hành tinh này. Những gì ta thực hiện trong phạm vi gia đình hay trong giới hạn của phòng thí nghiệm, thì đó không chỉ có ý nghĩa trên mặt khoa học và xã hội, mà chúng còn có giá trị rất đặc biệt, đó là ý nghĩa theo phương diện vũ trụ nữa.


 

DAVID FINKELSTEIN: Nếu như tuần này ta thông qua được sự kết luận rút ra từ lý thuyết mà tôi vừa mô tả, thì những người khách lạ trong vũ trụ còn lâu lắm mới tiếp cận nó được, ta thật sự là bộ phận của quy luật chi phối lý thuyết ấy và ta giúp tạo nên quy luật quyết định đời mình. Điều này không nên thổi phồng lên nữa. Hành vi (nghiệp) của ta tác động đến không–thời gian không đáng kể là bao. Không–thời gian là loại môi trường cứng hơn hết ta được biết, tôi chắc rằng có những con số quá lớn cũng chẳng kém đã kéo theo cách đánh giá nghiệp quả (hiệu quả từ những hành vi) của ta trên các luật tự nhiên. Có lẽ ta đang dò chừng đến những hiệu quả rất nhỏ, ít ra trong lĩnh vực thông thường. Song, nhờ thế mà ta cảm thấy trụ ngôi nhà hay mái ấm của mình. Andrei Sakharov, nhà vật lý người Nga được giải Nobel, ông bày tỏ vài ý tưởng giống như Duy Minh đã trình bày trong một phương trình xuất chúng của ông. Và điều đó được Sakharov viết trong bài tựa của một quyển sách đề tặng vợ mình: “Căn bản của lẽ phải chính là tình yêu.” Có thể ý tưởng đó không được thừa nhận một cách phổ quát, thế nhưng, tôi biết nếu Sakharov viết một bình phương, tức là ông muốn nhắm đến bình phương của lượng tử. Ông đang liên hệ đến hai loại cảnh giới: Ở mặt này là ý tưởng cổ điển về chân khách quan, còn mặt khác là cảnh giới của hành vi (tác dụng của nghiệp). Thật vậy, ông chứng nghiệm rằng, chân lý không phải là một sự vật khách quan. Nếu các bạn muốn tìm thấy, thì hãy hết lòng yêu thương, vì một lượng tác dụng nhất định nào đó đang nắm trong tay.

 

 

Ý tưởng cổ điển về chân lý nhắm đến khía cạnh bên ngoài vật lý của thế giới này, chẳng hạn, người ta nhắm đến Thượng đế,


 

người làm ra thêm nữa những thuyết về vạn hữu. Hoàn cảnh thực tế mà ta thấy trong phòng thí nghiệm lượng tử, chính là sự làm việc quần quật của nhà vật lý để hiểu biết một ít về vũ trụ y. Ta gặp được bao nhiêu trang thiết bị Anton “đáng thương” phải mang từ viện Innsbruck đến cho ta chứng kiến hình thái của một photon như thế nào.

 

 

ANTON ZEILINGER: Dụng cụ ấy không phải là nhiều. Bạn hãy còn chưa thấy những gì mà chúng tôi gọi là nhiều trang thiết bị đâu. (Câu nói này khiến ai nấy đều cười lên)

 

 

DAVID FINKELSTEIN: Nếu bạn muốn thấy hai photon, thì hãy đến viện Innsbruck. Anton không th mang chúng đến đây. Những gì mà ta quan t luôn là một b phận vô cùng nh của vũ trụ. Khi h thống y phát triển, thì nó phải được phát triển theo mặt hình học của nhà thí nghiệm. Mỗi khi ta i đến bất csự vật o của thế giới y, thì hầu như chúng đều là những s vật ẩn kín, bất kh thuyết, thậm chí, có l khó mà tri nhận, bởi vì tiêu điểm mà ta nhắm đến lại là một lĩnh vực quá tinh vi. Chẳng hạn, những sthể, thuộc tình u và ý nghĩa (meaning), ta không thước chừng dưới kính hiển vi, thế nhưng chúng không làm ta ngạc nhiên, vì chúng đằng sau i mà t đó ta hình thành.

 

 

Theo đề nghị của David, vào tháng Sáu năm sau, Anton và tôi sẽ cùng đức Dalai Lama, Alan Wallace Thubten viếng thăm viện Innsbruck chúng tôi sẽ trải qua hai ngày làm việc hết sức thú vị trong phòng thí nghiệm của Anton tọa lạc trên sườn núi nhìn xuống học viện ấy để thảo luận những vấn đề cơ bản liên quan đến cơ học lượng tử.


 

Phần kết thúc tốt đẹp của David là phần kết thúc nhấn mạnh đến vấn đề là làm sao ta hướng phạm vi chú tâm nhỏ bé trong địa hạt vật lý của mình sang những lĩnh vực rộng lớn hơn tập trung trên các giải khoa học làm thành bộ phận tất yếu trong cuộc hội luận của ta với đức Dalai Lama. Những trọng tâm khoa học của ta nhắm vào khía cạnh rất nhỏ trong một vũ trụ quá mênh mông mà đời ta đang trải qua. Người ta có thể bày tỏ niềm hy vọng về chu kỳ liên hệ của chúng ta thể được lan rộng ra kể cả những quan sát của mình về các đặc trưng mà không bị kính hiển vi chi phối: tình thương và ý nghĩa. Trong phiên họp mới đây, Duy Minh đã đề cập đến hình ảnh hợp tác giữa con người với thiên nhiên hoặc về “sự liều lĩnh gắn cùng thực tại”. Hầu như những ông ấy người khác phải hướng đến, chính là khả năng siêu việt vọng tưởng đặt tư duy và tri giác của ta đối lập mãi mãi tách ly khỏi sự chết lặng của thế giới tự nhiên y. Lòng từ bi “lân mẫn cùng” một chiến thắng như thế từ trong phân lập. Trong một ý nghĩa nào đó, ta thành những người đồng sáng tạo trong thế giới quan sự sự tương thông. Những tính chất tinh tế về trạng thái dính mắc và cách quan sát lượng tử khởi đầu nghe như bộ phận trong

triết học về “nghiệp dị thục”20 của Phật giáo.

 

 

 

 

 

 

 

20.  Mature: dị thục (vipāka). Đây một thuật ngữ của Duy Thức học, chỉ cho sự biến thái của quả không như nhân. Thí dụ, gieo đậu, không nghĩa là được đậu, mà tác dụng của kết quả là đậu sẽ dẫn đến cái gì, chẳng hạn, xây nhà, mua sắm tài sản; hoặc, phá sản vì bị mất mùa. Dị thục, còn có nghĩa là chín muồi, thành tựu.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle